Cùng Toploigiai đến với 5 bài Phân tích bài thơ đồng dao mùa xuân của Nguyễn Khoa Điềm ngắn gọn và cực hay
Tình yêu đất nước, quê hương luôn là đề tài được nhiều nhà văn, nhà thơ nhắc tới trong tác phẩm của mình. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những tác giả có các tác phẩm để lại ấn tượng sâu trong lòng người đọc, như Đất nước, Đồng dao mùa xuân,... Đồng dao mùa xuân được chắp bút năm 1994, như một câu chuyện kể về cuộc đời người lính qua cái nhìn đầy suy tư, thương cảm nhưng cũng rất đỗi tự hào và trân trọng của con người thời bình. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm muốn thể hiện sự biết ơn, tri ân và trân quý đối với những anh hùng đi trước, ngã xuống để xây nên nền độc lập ngày hôm nay.
Chủ đề của tác phẩm được thể hiện ngay từ cách đặt tên nhan đề bài thơ. “Đồng dao” là câu hát truyền miệng của trẻ con khi đi ra đồng chăn trâu, cắt cỏ, là câu hát trong dân gian. “Mùa xuân” là mùa bắt đầu của năm mới, là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, trời đất giao hòa, là khởi đầu tươi mới. “Đồng dao mùa xuân” ở đây được tác giả nhắc đến như một khúc hát ca khải hoàn, là bài đồng ca về tuổi trẻ của những người lính, những anh hùng đi trước xông pha ra trận, lấy xương máu của mình để đổi lấy nền độc lập và hòa bình cho hôm nay. Đây là khúc tráng ca ca ngợi anh bộ đội cụ Hồ gan dạ, bất khuất.
Câu chuyện bắt đầu từ một câu kể rất đỗi bình dị, kể về cuộc đời của một con người bình dị. Đã có một người lính như thế, đi vào cuộc chiến tranh kéo dài hàng vài thập kỉ, đầu đi không ngoảnh lại:
Có một người lính
Đi vào núi xanh
Những năm máu lửa.
Một ngày hoà bình
Anh không về nữa.
Trước khi rời quê hương lên đường bảo vệ Tổ quốc, họ cũng là những cô gái, chàng trai bình thường, chưa một lần yêu đương, vẫn đắm mình trong những trò chơi thơ bé:
Có một người lính
Chưa một lần yêu
Cà phê chưa uống
Còn mê thả diều
Khi Tổ quốc cần, họ dấn thân vào khói lửa của bom đạn, nghe theo tiếng gọi của lí tưởng “Đâu cần thanh niên có/ Đâu khó có thanh niên”, họ tình nguyện vào “núi xanh”. Quyết định đi như quyết định mặc tính mạng của mình, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Tháng năm khắc nghiệt diễn ra triền miên, rất nhiều anh hùng trẻ tuổi đã ngã xuống trước họng súng và bom đạn của kẻ thù. Họ đối diện với hiểm nguy từng khắc, làm bạn với tử thần như việc phải làm quen hằng ngày. Nhưng họ vẫn gác lại tuổi xuân, hy vọng và ước mơ của mình để lên đường bảo vệ Tổ quốc:
Một lần bom nổ
Khói đen rừng chiều
Anh thành ngọn lửa
Bạn bè mang theo
Mười, hai mươi năm
Anh không về nữa
Anh vẫn một mình
Trường Sơn núi cũ
Hiện thực khốc liệu nơi chiến trường đã cướp đi mạng sống của những anh hùng thah niên ấy. Mười, hai mươi năm nữa, khi người người, nhà nhà được tề tựu đông đủ, được quây quần bên nhau trong không khí hòa bình, thì những con người ấy vẫn đang chìm mình trong “Trường Sơn núi cũ”. Câu thơ “Anh thành ngọn lửa, bạn bè mang theo” mang ý nghĩa biểu tượng cho ý chí bất diệt của người lính, anh ngã xuống nhưng đã trở thành ngọn lửa bất diệt, soi sáng ý chí và quyết tâm của những con người còn sống. Những hành trang đơn giản đồng hành cùng họ trên mọi nẻo đường, những căn bệnh quái gở đeo đẳng cũng được tái hiện qua những vần thơ ngắn:
Ba lô con cóc
Tấm áo màu xanh
Làn da sốt rét
Cái cười hiền lành
Anh ngồi lặng lẽ
Dưới cội mai vàng
Dài bao thương nhớ
Mùa xuân nhân gian
Hình ảnh chiếc ba lô con cóc nhấp nhô trên con đường Trường Sơn, tấm áo bạc màu, làn da xám đi vì bệnh sốt rét hoành hành sẽ mãi còn đó, in đậm vào trong tâm trí người ở lại. Dù hiện tại khó khăn, khắc nghiệt nhưng sự lạc quan không thể cản nổi bước chân khẳng khái của người lính cụ Hồ, ánh sáng từ họ soi sáng con đường tiếp theo của đồng đội:
Anh ngồi rực rỡ
Màu hoa đại ngàn
Mắt như suối biếc
Vai đầy núi non...
Tuổi xuân đang độ
Ngày xuân ngọt lành
Theo chân người lính
Về từ núi xanh…
Những người lính trẻ ra đi vì màu xanh của bầu trời tổ quốc, họ nhớ thương tuổi trẻ của mình, nhớ thương màu hoa biếc đại ngàn, nhớ con người họ từng thương, nhớ những ngày còn được vô lo vô nghĩ. Câu thơ cũng có thể hiểu là nỗi nhớ thương của người thân về những người con đã anh dũng ngã xuống. Dù hiểu theo nghĩa nào, khổ thơ này cũng thấm đẫm tình cảm quân dân thắm thiết, là sự tôn trọng và trân quý của dân tộc đối với những vị anh hùng dân tộc. Họ có thể vô danh, nhưng đối với nhân dân, họ luôn là những người anh dũng nhất.
“Đồng dao mùa xuân” là khúc hát chứa chan tình cảm của Nguyễn Khoa Điềm với những người lính đã ngã xuống để bảo vệ nền độc lập cho Tổ quốc. Chúng ta - mỗi công dân thời bình cần biết trân trọng, ghi nhớ và biết ơn công lao vĩ đại ấy. Noi gương những anh hùng ấy, mỗi người cần bồi dưỡng, vun đắp và trau dồi những lí tưởng cao đẹp, học tập thật tốt để kiến thiết đất nước, chung tay xây dựng đất nước phát triển, phồn vinh.
'Đồng dao mùa xuân' là một tác phẩm sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác vào tháng 12 năm 1994. Bài thơ như một câu chuyện về cuộc sống của người lính, đánh giá từ góc độ sâu sắc của con người thời bình. Tác giả muốn thể hiện lòng biết ơn, tri ân đối với những người anh hùng trong cuộc chiến giải phóng dân tộc.
Chủ đề của tác phẩm được thể hiện rõ từ nhan đề. 'Đồng dao' là âm nhạc của tuổi thơ khi trẻ con đi chăn trâu, còn 'mùa xuân' là thời kỳ đầy sức sống, nảy nở. 'Đồng dao mùa xuân' ở đây là khúc hát về tuổi trẻ của những người lính dũng cảm, hy sinh vì tự do, độc lập của đất nước. Đây là một bản tráng ca ca ngợi lòng dũng cảm của anh bộ đội cụ Hồ.
Trước khi rời xa quê hương, họ là những người lính vô tư, hồn nhiên khi 'Chưa một lần yêu/ Cà phê chưa uống/ Còn mê thả diều'. Trong bối cảnh khó khăn của thời kỳ kháng chiến chống Đế quốc Mĩ, những người lính đáp ứng tiếng gọi của lý tưởng và tự nguyện 'đi vào núi xanh'. Những năm tháng chiến đấu căng tràn, nhiều chiến sĩ đã hy sinh trước 'mưa bom bão đạn của kẻ thù'. Hàng ngày, hàng giờ, những chàng trai trẻ vẫn tiếp tục chiến đấu dù biết rằng có thể không bao giờ trở về. Họ gửi gắm tuổi xuân, ước mơ và niềm đam mê riêng để bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, thực tế khắc nghiệt trên chiến trường đã đoạt mạng anh 'Một lần bom nổ/ Khói đen rừng chiều'. Khi đất nước hòa bình, mọi gia đình đoàn tụ, nhưng 'Mười, hai mươi năm/ Anh không về nữa'. Con số 'Mười, hai mươi năm' là biểu tượng cho thời gian dài đằng đẵng. Anh vĩnh viễn nằm nghỉ ở nơi núi rừng Trường Sơn 'Anh vẫn một mình/ Trường Sơn núi cũ'.
Câu thơ 'Anh thành ngọn lửa/ Bạn bè mang theo' mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc: anh rời xa thế gian nhưng cái chết của anh trở thành ngọn lửa bất diệt, soi sáng tinh thần cho đồng đội. Thân thể tan biến, nhưng hình ảnh về 'Ba lô con cóc/ Tấm áo mùa xanh/ Làn da sốt rét' của anh vẫn in sâu trong tâm hồn đồng đội. Cơn sốt rét rừng trở thành cảm xúc đau lòng cho bao người lính. Như những dòng thơ của Quang Dũng trong 'Tây Tiến':
'Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.'
Dù ở hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, người lính vẫn giữ nụ cười hiền hậu, lạc quan. Nụ cười đó như là nguồn động viên mạnh mẽ cho những đồng đội 'đói khổ có nhau'. Khổ thơ 'bi' nhưng lại tràn đầy hào quang, hùng vĩ!
Sau thời gian dài, chiến sĩ trở thành một phần của đất trời với tư thế ngồi lặng lẽ. Từ 'lặng lẽ', như làm nổi bật nỗi buồn sâu thẳm và đồng thời tạo nên bức tranh kiên định, uy nghiêm. Mùa xuân hiện hữu qua từ ngữ tinh tế 'mai vàng'. Cả hai dòng thơ 'Anh ngồi lặng lẽ/ Dưới cội mai vàng' hình dung về người lính canh giữ, hướng tâm hồn về đất nước yêu thương. Câu thơ 'Dài bao thương nhớ/ Mùa xuân nhân gian' mang hai chiều sâu. Một là nhớ thương của người lính, hai là kí ức về anh hùng dũng cảm của cộng đồng. Dù hiểu theo cách nào, thơ vẫn truyền đạt tình cảm đậm sâu 'Lòng anh và lòng tôi/ Mang nặng tình cá nước...' ('Cá nước' - Tố Hữu). Trong phần thơ tiếp theo, hình ảnh người lính hiện ra như một giấc mơ thơ mộng:
'Anh ngồi rực rỡ
Màu hoa đại ngàn
Mắt như suối biếc
Vai đầy núi non...'
Chiến sĩ âm thầm đóng góp, âm thầm hy sinh. Anh đi để lại mùa hoa rực rỡ. Dáng vẻ của anh đã 'hóa thân thành hình ảnh của quê hương/ Làm nên vẻ đẹp vĩnh cửu cho Đất nước...'. Tuổi xuân của anh hòa mình vào mùa xuân của đất nước 'Tuổi xuân đang độ/ Ngày xuân ngọt lành'.
Thể thơ bốn chữ ngắn, kỹ thuật điệp cấu 'Có một người lính', 'Anh không về nữa', tư duy hoán dụ 'mai vàng', ý tưởng âm chỉ 'ngọn lửa', so sánh tinh tế 'mắt như suối biếc' kết hợp với hình ảnh trong trẻo, ngôn từ giản dị, nhà thơ đã truyền đạt lòng biết ơn đặc biệt đối với thế hệ cha ông. Chính họ đã góp phần tạo nên mùa xuân hòa bình, độc lập cho đất nước và nhân dân.
Bài thơ là bản nhạc tràn ngập tình cảm của nhà thơ dành cho những anh hùng hi sinh vì tự do dân tộc ngày nay. Hãy trân trọng và ghi nhớ công lao to lớn ấy, mỗi người hãy nuôi dưỡng lý tưởng cao quý để đồng lòng xây dựng và phát triển đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm nổi tiếng là một trong những nhà thơ đặc sắc thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông tập trung khám phá vẻ đẹp của con người, quê hương và đất nước trong những năm khó khăn. Tác phẩm nổi bật nhất, gần gũi nhất với người đọc có lẽ chính là “Đồng dao mùa xuân”.
Đồng dao thường là thể loại thơ dành cho trẻ em, với nội dung ngắn gọn, dễ nhớ và thường được truyền miệng. Mỗi bài đồng dao đều chứa đựng một ý nghĩa, thường là câu chuyện hoặc lời khuyên nhẹ nhàng. Với tiêu đề “Đồng dao mùa xuân”, tác giả muốn truyền đạt một câu chuyện về mùa xuân, không chỉ là khoảng thời gian trong năm, mà còn ẩn chứa ý nghĩa về sự độc lập và tự do của đất nước sau những thời kỳ chiến tranh đau thương. Vậy nên, nhan đề “Đồng dao mùa xuân” thực chất là một câu chuyện nhỏ về hòa bình quê hương.
Năm câu thơ đầu tiên tiết lộ khái quát câu chuyện. Kể về anh chiến sĩ cụ Hồ, người đã mang đến mùa xuân cho đất nước. Anh bước vào “núi xanh” - biểu tượng cho dãy Trường Sơn hùng vĩ trong những năm chiến tranh ác liệt nhất và hy sinh ở đó. Một câu chuyện gói gọn, nhưng tràn đầy xúc cảm và lòng biết ơn, mở ra hình ảnh của người lính trẻ mạnh mẽ, kiên cường và dũng cảm giữa những năm bom đạn.
Trong cuộc chiến chống Mỹ, bao nhiêu thanh niên Việt Nam đã bỏ bút, theo đuổi lý tưởng “Xẻ dọc Trường Sơn cứu nước”. Họ là những người trẻ, nồng cháy với khát vọng tự do và độc lập, sẵn sàng đối mặt với khó khăn trên chiến trường. Anh chiến sĩ trong bài thơ cũng thuộc nhóm người như thế. Anh nhập ngũ khi còn quá trẻ, chưa trải qua niềm vui của tuổi thanh xuân “Chưa một lần yêu/ Cà phê chưa uống”. Nhưng anh vẫn giữ được sự trong sáng, ngây thơ “Còn mê thả diều” như một đứa trẻ. Tuy vậy, anh quyết tâm bảo vệ đất nước. Hình ảnh người lính Trường Sơn hiện lên một cách sống động qua những dòng thơ:
“Ba lô con cóc
Tấm áo màu xanh
Da trắng mịn màng
Nụ cười tươi tắn”
Màu áo xanh lá cây là biểu tượng của người lính, giúp họ trở nên vô hình giữa rừng cây, tránh xa ánh nhìn của địch. Ba lô con cóc là người bạn đồng hành không thể thiếu, chứa đựng bí mật của gia đình và kỷ niệm của những người thân yêu. Làn da xanh bị nặng, vẻ beo bụng do sốt rét và thời tiết khắc nghiệt, đồng thời là dấu hiệu không thể nhầm lẫn của người lính chiến đấu ở Trường Sơn. Trong khó khăn, họ vẫn giữ vững tinh thần lạc quan, hy vọng vào một tương lai an lành. Vì vậy, nụ cười lạc quan vẫn nở trên môi. Nụ cười ấm áp, làm tan chảy mọi khó khăn tại chiến trường.
Tuy nhiên, không phải ai cũng trở về sau trận chiến. Người lính trong bài thơ đã hi sinh. Sự hy sinh của anh được diễn đạt một cách giản dị nhưng đầy cảm xúc:
“Một quả bom nổ
Đen khói phủ rừng chiều
Ngọn lửa bùng cháy
Bạn bè đồng hành”.
Ngày nào, máy bay Mỹ ném bom xuống dãy Trường Sơn không ngừng. Trong bài thơ 'Những vì sao xa xôi', Lê Minh Khuê viết: 'Chúng tôi đã quen. Mỗi ngày phá bom khoảng năm lần. Ít hơn cũng có: ba lần'. Mỗi quả bom là một cầu tử thần đợi chờ cướp đi những anh hùng của chúng ta. Người lính trong bài thơ cũng hy sinh dưới đạn bom. Khói đen bao phủ cả khu rừng, dưới bóng chiều chạng vạng. Câu thơ 'Anh thành ngọn lửa' không chỉ mô tả thực tế mà còn ẩn dụ rằng sự hy sinh của anh là nguồn động viên, là sức mạnh và ý chí chiến đấu cho đồng đội. Mặc dù 'Mười, hai mươi năm/ Anh không về nữa', nhưng anh vẫn mãi ở lại với 'Trường Sơn núi cũ', góp phần tạo ra chiến thắng cho dân tộc. Ở đoạn thơ này, tác giả sử dụng biện pháp nói giảm, tránh bớt đau thương, thể hiện lòng biết ơn, trọng trách người lính đã hiến dâng tâm huyết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ba khổ thơ cuối bài, tác giả miêu tả sự hóa thân của người lính vào đất trời. Ông viết:
“Anh ngồi lặng lẽ
…
Quay về từ núi xanh”
Nỗi nhớ anh không chỉ thuộc về tác giả mà còn là trái tim của gia đình, người thân, và bạn bè. Mỗi mùa xuân là một mùa nhớ thương sâu sắc. Người con Việt Nam, mặc dù không biết rõ về anh, nhưng mãi mãi ghi nhớ công lao của anh đối với đất nước. Anh đã hòa mình vào cánh hoa đại ngàn, những dòng suối biếc, và những ngọn núi xanh. Dù khổ thơ ngắn gọn nhưng đã truyền đạt vẻ đẹp rực rỡ của rừng Trường Sơn. Chiến tranh qua đi, rừng trở nên hùng vĩ, thơ mộng, và tươi đẹp. Khổ thơ cuối cùng ca ngợi những người lính hy sinh tuổi trẻ, đóng góp vào mùa xuân hòa bình độc lập của đất nước. Mọi điều được xây dựng, bồi đắp từ dấu chân của những người lính từ nơi núi xanh.
“Đồng dao mùa xuân” là một bài thơ ngắn gọn nhưng tinh tế. Mỗi hình ảnh, từ ngữ đều được lựa chọn cẩn thận, miêu tả người lính một cách chân thực và thể hiện tâm huyết của thanh niên trẻ với đất nước thời bấy giờ. Hình ảnh trong sáng, bình dị cùng ngôn ngữ tinh tế giúp tác giả thể hiện cảm xúc trân trọng, biết ơn và tình yêu thương một cách tinh tế.
Với “Đồng dao mùa xuân”, Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa để lại ấn tượng trong danh sách những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Đến ngày nay, mỗi khi đọc bài thơ, độc giả vẫn cảm nhận được xúc động vì sự cống hiến và hi sinh của những thanh niên trẻ không ngần ngại dâng hiến bản thân cho sự nghiệp của Tổ quốc.
"Đồng dao mùa xuân" là một trong những bài thơ mang đậm dấu ấn sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Tác phẩm được viết vào tháng 12 năm 1994. Bài thơ như một câu chuyện kể về cuộc đời người lính qua cái nhìn đầy suy tư, sâu lắng của con người thời bình. Qua đó, tác giả muốn bày tỏ thái độ biết ơn, tri ân đối với những người đã có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Chủ đề tác phẩm được thể hiện ngay từ nhan đề. Trước hết, để có thể hiểu được ý nghĩa tên văn bản, chúng ta cần cắt nghĩa từ "đồng dao" và "mùa xuân". Đồng dao là những câu hát của trẻ em khi đi chăn trâu, làm đồng. Còn mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm, khoảng thời gian vạn vật, trời đất giao hòa, sinh sôi, nảy nở. Như vậy, đồng dao mùa xuân là câu hát về mùa xuân. Tuy nhiên trong bài thơ, cụm từ "Đồng dao mùa xuân" được hiểu theo nghĩa: khúc hát đồng dao về tuổi trẻ của những người lính xông pha ra trận để mang đến sự tự do, độc lập cho đất nước. Đây là khúc tráng ca ca ngợi anh bộ đội cụ Hồ.
Trước lúc rời xa quê hương, họ là những người lính vô tư, hồn nhiên khi "Chưa một lần yêu/ Cà phê chưa uống/ Còn mê thả diều". Trong không khí chung của thời điểm cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mĩ, người lính nghe theo tiếng gọi lí tưởng và tự nguyện "đi vào núi xanh". Năm tháng chiến đấu diễn ra liên miên, rất nhiều chiến sĩ đã ngã xuống trước "mưa bom bão đạn của kẻ thù". Hàng ngày, hàng giờ, vẫn còn đó những chàng trai trẻ xung phong ra chiến trận dù biết trước chưa chắc có ngày về. Họ để lại tuổi xuân, niềm mộng mơ, yêu thích của riêng mình để ra đi bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, hiện thực khốc liệt nơi chiến trường đã cướp lấy mạng sống của anh "Một lần bom nổ/ Khói đen rừng chiều". Ngày đất nước hòa bình, người người nhà nhà được tề tựu, quây quần bên nhau thì "Mười, hai mươi năm/ Anh không về nữa". "Mười, hai mươi năm" là những con số cụ thể cho thấy thời gian dài đằng đẵng. Anh vĩnh viễn gửi lại tuổi thanh xuân nơi núi rừng Trường Sơn sâu thẳm "Anh vẫn một mình/ Trường Sơn núi cũ".
Câu thơ "Anh thành ngọn lửa/ Bạn bè mang theo"này mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc: anh rời xa trần thế nhưng cái chết của anh trở thành ngọn lửa bất diệt, soi sáng ý chí, tinh thần cho đồng đội. Thân thể không còn song những hình ảnh về "Ba lô con cóc/ Tấm áo mùa xanh/ Làn da sốt rét" của anh vẫn luôn in sâu trong trí nhớ đồng đội. Cơn sốt rét rừng đã trở thành nỗi ám ảnh với biết bao người lính năm ấy. Căn bệnh "quái gở" khiến cho làn da vàng vọt, xanh xao. Chẳng phải nhà thơ Quang Dũng cũng chẳng từng đề cập trong bài thơ "Tây Tiến" hay sao?
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm."
Dù trong tình cảnh hiểm nghèo, khó khăn mọi mặt nhưng người lính vẫn nở nụ cười hiền từ, lạc quan. Nụ cười ấy như tiếp thêm sức mạnh chiến đấu cho những người đồng đội "đói khổ có nhau". Khổ thơ "bi" mà cũng hào hùng, tráng lệ vô cùng!
Sau ngần ấy năm, người lính hóa thân vào đất trời với dáng ngồi lặng lẽ. Từ "lặng lẽ" như phảng phất một nỗi buồn sâu kín song cũng gợi cho ta liên tưởng về tư thế uy nghiêm, kiên định. Mùa xuân tiếp tục xuất hiện thông qua biện pháp hoán dụ "mai vàng". Cả hai dòng thơ "Anh ngồi lặng lẽ/ Dưới cội mai vàng" đem đến hình dung về hình ảnh người lính đang ngồi canh giữ và hướng mắt về đất nước thân yêu. Ở những câu thơ tiếp theo "Dài bao thương nhớ/ Mùa xuân nhân gian" có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất là nỗi nhớ thương nhân gian của người lính. Còn cách hiểu thứ hai là nỗi nhớ thương về những người con anh dũng của đồng bào. Dẫu hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ vẫn thắm nồng tình cảm quân dân "Lòng anh và lòng tôi/ Mang nặng tình cá nước..." ("Cá nước" - Tố Hữu). Trong khổ thơ tiếp theo, hình ảnh người lính hiện lên thật thơ mộng:
"Anh ngồi rực rỡ
Màu hoa đại ngàn
Mắt như suối biếc
Vai đầy núi non..."
Người chiến sĩ âm thầm cống hiến, âm thầm hi sinh. Anh ra đi để lại mùa hoa rực rỡ. Dáng hình anh đã "hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên Đất nước muôn đời...". Tuổi xuân của anh đã hòa cùng mùa xuân của đất nước "Tuổi xuân đang độ/ Ngày xuân ngọt lành".
Bằng thể thơ bốn chữ ngắn gọn, biện pháp điệp cấu trúc "Có một người lính", "Anh không về nữa", hoán dụ "mai vàng", ẩn dụ "ngọn lửa", so sánh "mắt như suối biếc" cùng hình ảnh thơ trong sáng, ngôn từ bình dị, nhà thơ đã đem đến cho người đọc sự biết ơn đối với thế hệ cha ông. Chính họ đã làm nên mùa xuân hòa bình, độc lập cho đất nước, nhân dân.
Có thể nói, bài thơ là khúc hát chứa chan tình cảm của nhà thơ đối với những người lính đã ngã xuống vì nền độc lập dân tộc ngày hôm nay. Từ đây, chúng ta cần trân trọng và ghi nhớ công lao to lớn ấy. Mỗi người hãy bồi dưỡng, vun đắp những lí tưởng cao đẹp để cùng chung tay xây dựng, phát triển đất nước của họ.
Bài thơ “Đồng dao mùa xuân” của Nguyễn Khoa Điềm đã để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc về hình ảnh người lính. Họ là những con người còn trẻ tuổi, trẻ lòng vì “chưa một lần yêu, cà phê vẫn chưng uống và còn mê thả diều”. Dẫu vậy, họ vẫn mang trong trái tim nhiệt huyết, lí tưởng để xung phong vào chiến trường khốc liệt. Đến khi đất nước hòa bình, những người lính ấy đã hy sinh, không thể trở về quê hương được nữa. Sự hi sinh của họ dường như đã hóa thành bất tử, họ sống mãi với tuổi thanh xuân đẹp đẽ, sống mãi cùng mùa xuân của vũ trụ. Qua đây, tác giả còn muốn thể hiện lòng biết ơn những người lính trẻ đã dâng hiến mùa xuân cuộc đời mình kết thành những mùa xuân vĩnh cửu cho dân tộc, đất nước.
Khi đọc “Đồng dao mùa xuân” của Nguyễn Khoa Điềm, tôi cảm thấy thêm ngưỡng mộ và yêu mến những người lính. Tác giả đã xây dựng hình ảnh người bộ đội cụ Hồ hiện lên đầy chân thực. Khi mới vào chiến trường, họ là những chàng thanh niên vẫn còn trẻ tuổi trẻ lòng với sự hồn nhiên vì chưa một lần yêu, cà phê vẫn chưng uống và còn mê thả diều. Dù vậy, họ lại là những con người giàu lí tưởng, nhiệt huyết cách mạng và sẵn sàng cống hiến tuổi thanh xuân cho đất nước. Những năm chiến tranh khốc liệt, họ chiến đấu và hy sinh, gửi lại thân xác nơi chiến trường, kỉ vật còn lại chỉ là chiếc ba lô con cóc. Hình ảnh người họ hiện lên với làn da xanh xao, nhưng nụ cười lại hiền từ đến lạ. Đối với nhà thơ, người lính dù đã hy sinh nhưng tuổi xuân của họ vẫn bất tử, chính họ đã làm nên mùa xuân vĩnh hằng của đất nước.
Trong những tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, bài "Đồng dao mùa xuân" là một trong những tác bài thơ để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Đặc biệt nội dung của bài thơ được thể hiện rõ nhất qua ba khổ thơ cuối, đó chính là sự hóa thân của người lính vào đất trời. Người lính hiện lên với dáng ngồi lặng lẽ dưới cội mai vàng cùng với đó là nỗi nhớ thương dài rộng, to lớn với trần gian vào xuân. Những người lính trong bài thơ không chỉ hiện lên với vẻ đẹp hào hùng, bi tráng mà còn mang vẻ mộng mơ với lý tưởng cao đẹp qua khổ thơ: "Anh ngồi rực rỡ... Vai đầy núi non". Những người lính với dáng ngồi cao lớn cùng biện pháp tu từ so sánh, phóng đại mà đôi mắt, bờ vai của họ như chứa đựng cả thiên nhiên đất trời, mang một phần đất nước. Vì trọng trách của quê hương, Tổ quốc đang ở trên vai, những người lính cần phải quyết tâm, cố gắng cùng nhau chiến đấu để bảo vệ, dành lại độc lập cho dân tộc ta. "Tuổi xuân đang độ/ Ngày xuân ngọt lành", tuổi trẻ của người lính đang trong thời kỳ thanh xuân tươi đẹp cùng với ngày xuân của đất nước đã hòa quyện với nhau tạo nên sự dung hợp giữa người và cảnh, giữa cá nhân với tập thể. Kết lại ba khổ thơ là câu thơ: "Theo chân người lính/ Về từ núi xanh" đã cho thấy sự hi sinh tuổi trẻ tươi đẹp của những người lính để giành lại độc lập, mang về mùa xuân hòa bình cho dân tộc ta. Như vậy với thể thơ bốn chữ, ngôn từ thơ tinh tế, hình ảnh thơ trong sáng, bình dị kết hợp với các biện pháp tu từ, Nguyễn Khoa Điềm đã cho độc giả thấy vẻ đẹp của những người lính trên chiến trường sẵn sàng hiến dâng bản thân cho quê hương, đất nước, gì một tương lai tươi sáng, giàu đẹp hơn.