logo

Phân tích bài Phú Sông Bạch Đằng


Phân tích bài Phú Sông Bạch Đằng

Phân tích bài Phú Sông Bạch Đằng | Văn mẫu 10 hay nhất

"Trăm năm bia đá cũng mòn

Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ!"

       Trong những áng văn viết về trận thủy chiến Bạch Đằng, bài phú của Trương Hán Siêu ra đời sớm hơn tất cả và cũng là áng văn “không tiền khoáng hậu”. Bạch Đằng giang phú là tác phẩm mà tính chất trữ tình và màu sắc anh hùng ca được hòa quyện nhuần nhuyễn và tinh tế.  

        Từ những câu chữ đầu tiên nhân vật khách xuất hiện đầy phóng khoáng, hào mại. Khách rất “ham du ngoạn”, “giương buồm giong gió”, “lướt bể chơi trăng”. Gót giang hồ đi đã khắp:

Cửu giang, ngũ hồ

Tam ngô, Bách Việt.

Nơi có người đi,

Đâu mà chẳng biết

         Ở đây, bằng hình ảnh những không gian to rộng, những vùng đất nổi tiếng và các động từ thể hiện động tác mạnh, số từ sổ sách, số nhiều, đi liền với cách diễn tả thời gian chuyển tiếp nhanh:sớm, chiều và cả cách nói khẳng định, tác giả đã khắc họa rõ nét tính cách của một người năng nổ, nhạy bén, xông pha, ham hiểu biết và hoạt bát của khách. Nó cũng là dấu ấn làm nên tên tuổi của khách khác xa với cách “chơi” của bậc ẩn sĩ. Bởi lẽ những phiêu du của khách không chỉ là thú chơi vô bổ mà vì mục đích củng cố, trau dồi tri thức về lịch sử nước nhà mong sánh ngang với Tư Mã Thiên.

        Tiếp theo, tác giả đưa đến người đọc một cuộc ngao du vừa mạo hiểm vừa độc đáo: cuộc chơi sông Bạch Đằng. Nếu như mở đầu khi thời gian đã tượng trưng hóa thì đến đây, tác giả đi vào cảnh thực với không gian cụ thể (cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng) với một thời gian được chỉ định rõ (tháng chín) và một phong cách cụ thể (nước trời một sắc, bờ lau san sát) cũng những dấu vết của chiến trường được diễn tả một cách hình tượng. Phong cảnh Bạch Đằng cũng phơi phới, tràn đầy hào khí dường như cũng trầm lắng, cũng lặng mình theo thời gian với tất cả trầm tư và nhạy cảm đang đứng sững, buồn tiếc, ngậm ngùi:

Buồn vì cảnh thảm,

Đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.

        Như vậy, nhân vật khách bước vào tác phẩm bằng tất cả trân trọng, trang nghiêm, là nhân vật được khẳng định. Dường như đây cũng chính là lời khẳng định đến từ tác giả - kẻ sĩ mang trong mình dòng máu thiết tha với đất nước và lịch sử dân tộc.

        Sự xuất hiện của nhân vật khách với trạng thái trầm tư có ý nghĩa như một cách gợi mở, dẫn dắt cho sự xuất hiện của nhân vật tập thể các bô lão. Đó là số đông đa dạng về tuổi tác: người rất già phải chống gậy, người trẻ còn khỏe bơi được thuyền nhỏ nhưng tất cả đều nhiệt tình, nhạy cảm và hiếu khách. Họ hết lời thăm hỏi:

Bên sông bô lão,

Hỏi ta sở cầu.

        Tác giả không nhắc lại câu hỏi của khách, nhưng qua sự sốt sắng của các bô lão, qua phương thức nói chuyện của khách và các bô lão ta có thể hiểu chủ đề câu chuyện: các bô lão mang tư cách là người địa phương và có thể nhiều người đã là nhân chứng của trận chiến oanh liệt đã dẫn khách tham quan chiến địa cũ và thuyết minh cho ông về trận  chiến lịch sử với những chiến tích:

Có kẻ gậy lê chống trước

Có người thuyền nhẹ bơi sau

Vái ta mà thưa rằng

- Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá phách Hoàng Thao.

Những bô lão đã hào hứng, sôi nổi kể lại trận đánh “đương khi ấy” bằng tất cả hồ hởi, niềm tin, lòng tự hào vào truyền thống yêu nước và tinh thần quật khởi của dân tộc:

Thuyền bè muôn đội

Tinh kỳ phấp phới

Tì hổ ba quân

Giáo gươm sáng chói.

Trận đánh thư hùng chửa phân,

Chiến lũy Bắc Nam chống đối.

Đó cũng là trận đánh ác liệt “kinh thiên động địa”:

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổ

         Tính chất ác liệt của trận chiến đến từ quy mô, lực lượng so sánh và cũng đến sự đối đầu về ý chí của hai bên đối phương. Và chính ở trận Bạch Đằng quân nhà Trần cũng như quân Ngô Quyền trước đó phải đối đầu với đội quân mưu sâu, chước quỷ hung đồ:

Kìa:

Tất Liệt thế cường,

Lưu Cung chước đối.

Những tưởng tung roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi.

          Trận chiến quyết liệt, khó khăn, nhiều tổn thất đến nỗi “sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”, đến nỗi bao nhiêu năm sau các nhà thơ qua đó đều vẫn có chung cảm giác nước sông còn loang máu đỏ như Trần Minh Tông từng viết:

Ánh nước chiều hôm màu đỏ khé,

Tưởng rằng máu giặc vẫn chưa khô

         Chính vì tính chất khó khăn, quyết liệt đó mà hơn ai hết, các bô lão hiểu rằng trận chiến đấu và chiến thắng của dân tộc mình không chỉ có ý nghĩa với một thời:

Khác nào:

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay.

Trận hợp phì, giặc Bồ Kiên phút giây chết trụi.

Đến nay nước sông tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.

Tái tạo công lao

Muôn đời ca ngợi.

         Như vậy, trận chiến trên sông Bạch Đằng hay chính là trận chiến chống quân Mông Nguyên không chỉ có ý chí kiên gan bền bỉ của đội quân hùng mạnh mà còn có sự giúp đỡ từ hồn thiêng núi sông cũng có nghĩa là nó bao gồm cả ba nhân tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa.

        Ở đây, các bô lão còn nhấn mạnh vai trò của con người, của những đôi vai sẵn sàng chinh chiến, gánh vác trọng trách mà đất nước giao phó. Đó là các bậc sánh với “Vương sư họ Lã” trong hội Mạch Tần; với “ Quốc sĩ họ Hàn” trong trận Duy Thủy và đặc biệt là Đại vương Trần Quốc Tuấn, một người có tài thao lược nhất là tầm nhìn xa trông rộng đến muôn đời:

Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

Tiếng thơm đồn mãi,

Bia miệng không mòn.

         Cảnh thứ nhất là Bạch Đằng lúc đương đại, thiên nhiên hùng tráng đẹp như “từ có vũ trụ” song đối với thế tình nó như đã nhuốm mùi dâu bể, như đã chìm vào tĩnh lặng, đi vào ngủ quên để cho chính hồn thơ như khách phải nặng lòng bùi ngùi. Bạch Đằng đương đại khoác trên mình vẻ đẹp vừa đơn sơ lại rất nên thơ, trữ tình. Cảnh thư hai là Bạch Đằng trong lịch sử đã được sống dậy trong sự hồi tưởng của các bô lão rất đậm tính chất anh hùng ca. Tuy nhiên, khi làm sống dậy quá khứ say sưa và bình luận về nó là khi họ phải lật giở từng trang quá khứ, trở về với hoài niệm để sống lại một thời tuổi trẻ của cả non sông:

Hoài cổ nhân hề vẫn thế,

Lâm nhan lưu hề hậu nhan.

        Với tư cách là những người trong cuộc, là chứng nhân của mảnh đất anh hùng các bô lão thấy đau xót, hổ thẹn khi nó bị bỏ rơi đến nỗi dấu tích hào kiệt trở thành hoang phế, mộ phần người bỏ mình cho sự sống còn của dân tộc đã bị lẫn lộn trong đám “cốt khô gầy gò” và hổ thẹn với chính mình bởi những trọng trách quá nặng nề trên đôi vai nhỏ bé khi bước chân nối tiếp truyền thống vẻ vang anh hùng của cha anh để dựng xây đất nước.

        Khi cuộc chơi sông Bạch Đằng kết thúc là khi dòng sông lịch sử đi vào hoài niệm để bài phú được kết thúc bằng hai lời ca và thực sự đó là lời tổng luận của các bô lão và của khách. Nếu như các bô lão, những người dân bình thường nhấn mạnh một lẽ đời mang tính chất quy luật như nước sông cuồn cuộn chảy về biển cả, đó là:

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh

         Riêng khách, một thi nhân, một con người lịch duyệt và cũng là “một phương diện quốc gia đã bổ sung thêm vai trò của hai vị thánh quân, nhấn mạnh đến cái đức cao mà một vị vua phải có để đêm lại “muôn thuở thanh bình” cho trăm họ và hoàng tộc. Không chỉ vậy, đối với khách “đức cao” là tài năng, đức độ, là những phẩm chất tiên quyết của một người có tài, có bản lĩnh.

        Quả đúng như đánh giá của Bùi Quang Nguyên “Bạch Đằng giang phú” đã khắc họa một cảnh trí mĩ lệ của Tổ quốc với cả hình bóng chiến công oanh liệt của quân dân ta thời trước. là một bài phú mẫu mực chẳng những thể hiện đậm nét hào khí Đông A của văn học thời Trần mà còn có giá trị to lớn trong lịch sử văn học nước nhà.”

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 05/02/2021