logo

Lý thuyết Vợ chồng A Phủ

Hướng dẫn tìm hiểu khái quát về tác phẩm Vợ chồng A Phủ đầy đủ, chi tiết nhất. Tổng hợp kiến thức về tác giả, hoàn cảnh ra đời, nội dung, ý nghĩa của tác phẩm Vợ chồng A Phủ


I. Đôi nét về tác giả Tô Hoài

1. Tiểu sử 

- Tô Hoài (1920-2014) tên khai sinh là Nguyễn Sen.

- Quê nội: thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội).

- Sinh ra và lớn lên ở quê ngoại: làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).

- Thời trẻ, ông phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề như: làm gia sư dạy kèm trẻ, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn,... và nhiều khi thất nghiệp.

- Năm 1943, gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.

- Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc.

2. Sự nghiệp văn học

a. Tác phẩm chính

Sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau: Dế Mèn phiêu lưu kí (truyện, 1941); O chuột (tập truyện, 1942); Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953); Miền Tây (tiểu thuyết, 1967); Ba người khác (tiểu thuyết, 2006),...

b. Phong cách nghệ thuật

- Hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có, nhiều khi rất bình dân và thông tục, nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc.


II. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ

1. Tóm tắt tác phẩm

Truyện kể về cuộc đời của vợ chồng A Phủ. Mị là cô gái trẻ đẹp, nhà nghèo, sống ở Hồng Ngài. Cô bị bắt cóc về làm vợ A Sử, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cô phải lao động quần quật, sống không khác gì con trâu, con ngựa. Khi mùa xuân đến, cô cũng muốn đi chơi liền bị A Sử trói đánh đứng trong buồng. Chỉ đến khi A Sử bị đánh, cô mới được cởi trói để đi lấy lá thuốc, xoa dầu cho chồng.

A Phủ là một chàng trai nghèo, mồ côi, khỏe mạnh, gan góc và giỏi lao động. Vì đánh A Sử đến phá rối cuộc chơi nên bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ, rồi trở thành người ở đợ trừ nợ cho nhà thống lí. Một lần để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị trói đứng, bị bỏ đói suốt mấy ngày đêm. Một đêm, khi trở dậy thổi lửa để sưởi, Mị bắt gặp dòng nước mắt chảy trên gò má đen sạm của A Phủ. Mị nghĩ về thân phận mình, đồng cảm về cảnh ngộ của A Phủ. Cô đã cắt dậy trói giải thoát cho A Phủ và bỏ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra.

Hai người đến Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, tạo dựng một cuộc sống mới. A Phủ được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng A Châu trở thành tiểu đội trưởng du kích. Họ cùng mọi người cầm súng để gìn giữ bản làng.

Lý thuyết Vợ chồng A Phủ đầy đủ nhất

2. Hoàn cảnh sáng tác

- Sau cách mạng tháng Tám – 1945 ngoài đề tài quen thuộc là Hà Nội, Tô Hoài còn sáng tác về đề tài miền núi, viết về cuộc sống, phong tục tập quán, sinh hoạt và những con người nơi đây. Nhắc tới đề tài miền núi trong những sáng tác của Tô Hoài không thể không nhắc đến Vợ chồng A Phủ.

- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là kết quả của tám tháng tham giá chiến dịch Tây Bắc sống và gắn bó tình nghĩa với đồng bào dân tộc của nhà văn, Truyện ngắn sáng tác năm 1952, được in trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài gồm ba tác phẩm: Mường Giơn, Cứu đất cứu mường và Vợ chồng A Phủ

3. Phương thức biểu đạt: 

Tự sự.

4. Bố cục (3 phần)

- Phần 1 (từ đầu đến “bị đánh vỡ đầu”): Cuộc sống và diễn biến tâm trạng của Mị khi ở nhà thống lí Pá Tra

- Phần 2 (tiếp đó đến “đánh nhau ở Hồng Ngài”): Hoàn cảnh của A Phủ và cuộc xử kiện ở nhà thống lí Pá Tra

- Phần 3 (còn lại): Mị cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Ngài

4. Giá trị nội dung

Giá trị hiện thực:

+ Qua cả thiên truyện tác giả đã phản ánh hiện thực cuộc sống đầy bất hạnh của những người dân nghèo miền Tây Bắc trước sự thống trị của cường quyền phong kiến và thần quyền phong kiến tàn bạo.

+ Thấy rõ được những tội ác và hành động tàn bạo của cha con thống lí không chỉ hành hạ về thể xác mà còn hành hạ về tinh thần, tâm hồn của những người dân vô tội.

+ Thông qua cuộc đời hai nhân vật chính, ta thấy được phẩm chất tốt đẹp và sức mạnh khát vọng sống tiềm tàng mãnh liệt trong con người họ mà rõ ràng nhất là nhân vật Mị.

Giá trị nhân đạo:

+ Cảm thông sâu sắc với sự bất hạnh về cả thể xác lẫn tinh thần của những người dân nghèo mà cụ thể là Mị và A Phủ.

+ Phát hiện ca ngợi vẻ đẹp đáng quý của những người dân lao động cần cù chăm chỉ, đặc biệt là yêu tự do và khát vọng sống mạnh mẽ, tiềm tàng.

+ Tố cáo thế lực phong kiến bạo tàn, lạc hậu. Đã dùng sức mạnh của đồng tiền và sức mạnh của thần linh, ma quỷ để đè nén, áp bức cuộc sống của những người dân nhỏ bé, tội nghiệp.

5. Giá trị nghệ thuật

-Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi Tây Bắc với những chi tiết, từ ngữ chính xác, cụ thể, giúp gợi ra trọn vẹn không gian Tây Bắc.

-Bằng sự hiểu biết về phong tục tập quán nơi đây Tô Hoài đã miêu tả sinh động hấp dẫn những phân đoạn như đêm tình mùa xuân, cảnh bắt vợ, cảnh phạt vạ, không gian lễ hội, trang phục của A Sử,...

-Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc. Mỗi nhân vật được miêu tả với bút pháp khác nhau. Mị là nhân vật tâm lý sẽ được tập trung miêu tả dòng trạng thái, tâm lý, suy nghĩ. Còn A Phủ là kiểu nhân vật hành động nên tác giả sẽ đi sâu vào những hành động cụ thể để lột tả tính cách nhân vật.


III. Đọc – hiểu văn bản.

1. Nhân vật Mị:

a. Cách giới thiệu nhân vật:

- Một cô gái “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, dù làm bất cứ việc gì, “ cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” >< khung cảnh đông đúc, tấp nập của gia đình Thống lí Pá Tra → nghệ thuật tạo tình huống đối nghịch, “có vấn đề”, khiến người đọc phải tham gia vào hành trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật.

b. Số phận:

* Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:

- Mị sinh ra trong một gia đình nghèo. Cha mẹ Mị vay tiền nhà thống lí để cưới nhau, đến khi cha già, mẹ chết mà vẫn chưa trả hết nợ.

- Mị lớn lên xinh đẹp “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị“, có tài “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo“

- Mị rất hiếu thảo, giỏi giang và tự tin “con nay đã biết cuốc nương…. Đừng bán con cho nhà giàu”

- Tuy nhiên, vì món nợ truyền kiếp, Mị đã bị thống lí bắt về làm dâu gạt nợ.

* Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:

- Bố mẹ lấy nhau không có tiền cưới phải mượn của Thống lí Pá Tra → về già cũng chưa trả được nợ → món nợ truyền kiếp. Mị đã đề nghị cha để cô đi làm nương để trả nợ, van xin cha “đừng bán con cho nhà giàu””, nhưng điều đó đã không thành.

- Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Con dâu gạt nợ: bề ngoài là con dâu nhưng thực chất bên trong là con nợ.

- Điều cực nhục và đau khổ nhất của Mị là nếu con nợ thông thường, dù khốn khổ đến mấy vẫn còn hi vọng một ngày nào đó thoát khỏi thân phận con nợ khi đã thanh toán đầy đủ cho chủ nợ. …Oái ăm ở chỗ, Mị là con nợ nhưng cũng là con dâu. Là con dâu, linh hồn Mị đã bị đem “trình ma” nhà thống lí rồi. Mị không thể chạy đâu cho thoát. Mị sẽ phải kéo lê cái thân phận khốn khổ của mình cho đến tàn đời.cái nguy cơ biến thành con nợ chung thân, Mị đã linh cảm từ trước.

- Mị bị đối xử như một nô lệ : bị bóc lột sức lao động, làm dù mọi việc “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay đến mùa thì đi nương bẻ bắp”, và dù làm viêc gì thì “lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”; Mị phải làm việc suốt ngày đêm, suốt năm , suốt đời như thế “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó được đứng gãi chân đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”

- Mị sống trong tăm tối, tủi nhục:

+ “Buồn rười rượi, cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa ……” đến mức chai sạn đi. “Lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” → không còn ý thức về quyền làm người của mình nữa.  “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” → phải chấp nhận. “Mị tưởng mình như là trâu, như là ngựa”, chỉ “cúi mặt không nghĩ ngợi”, “chỉ nhớ đi, nhớ lại những việc giống nhau”→ phó mặc cho hoàn cảnh, và cam chịu, một cuộc sống vô nghĩa. “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện…cả ngày” → Mị trở thành nô lệ bị đày đọa, bị chúng hạ, bị tước hết mọi quyền sống đến mức bị tê liệt về tinh thần chỉ biết thở dài và buông xuôi mặc cho số phận.

+ Mị nhiều lần bị A Sử đánh đập tàn nhẫn: bị trói đứng vào cột nhà không cho đi chơi tết , bị đập vào mặt khi xoa thuốc cho chồng , bị đánh ngã dúi vào bếp lửa. Mị trở nên câm lặng, sống âm thầm cô độc, Mị không nói , “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, chỉ biết tìm sự ấm áp bên bếp lửa.

+ Nơi ở (nơi lui ra, lui vào): “một căn buồng kín mít chỉ có một cái cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” . Căn buồng Mị nằm như một nhà tù rùng rợn giam hãm, hủy diệt sức sống, tâm hồn Mị. Chính cái nhà ngục tinh thần này đã biến cô Mị tài hoa, xinh đẹp thành một cái xác biết đi không hơn không kém.

- Mị bị áp chế về mặt tinh thần : Mị là con dâu nhưng thực chất là con nợ. Con nợ vẫn còn hi vọng một ngày nào đó hết nợ sẽ thoát khỏi nhà thống lí. Còn Mị là con nợ nhưng lại là con dâu. Mị đã bị cúng trình ma nhà thống lí, Mị không có con đường nào khác ngoài việc kéo lê thân phận khốn khổ của mình “đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Thần quyền và cừng quyền buộc Mị phải an phận cho số kiếp. Đó là nỗi thống khổ về tinh thần của đồng bào miền núi.

- Mị bị đày đọa lao động khổ sai ở nhà thông lí, lẽ cố nhiên là rất cực nhục, nhưng một sự cầu lưu vĩnh viễn về tinh thần mới thực sự đáng sợ. Nó sẽ làm cho cô sống mà như chết, hay nói chính xác hơn là buộc cô phải chấp nhận tồn tại với trạng thái gần như đã chết trong lúc đang sống . Có có thể thoát ra khỏi tình thế tuyệt vọng ấy không, khi cô đã mất tri giác về cuộc sống.

⇒ Có thể nói những hiểu biết và sự đồng cảm của Tô Hoài đối với cuộc sống của đồng bào miền núi đã khiến các trang viết của ông thật chân thực và xúc động. Bằng những chi tiết chọn lọc nhà văn đã giúp người đọc thấu hiểu thân phận khổ đau, tủi nhục của Mị khi làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Số phận éo le, đau khổ và tủi nhục: bị tước mất quyền sống, sống cũng như chết, sống vô nghĩa → Mị là điển hình cho thân phận của phụ nữ miền núi trong xã hội thời bấy giờ.

c. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị

Khi mới về làm dâu nhà thống lí:

- Mị ý thức được số kiếp làm “con trâu, con ngựa” trong nhà thống lí của mình nên “hàng tháng trời đêm nào Mị cũng khóc” – Đó là những giọt nước mắt đau đớn, tủi hận, khóc thương cho chính bản thân mình.

- Mị trốn về nhà “vĩnh biệt cha” để chết bằng lá ngón → Đây là sự phản kháng thật tiêu cực, nhưng nó là cách chống đối lại thân phận nô lệ, không chấp nhận cuộc đời mà hạnh phúc bị tước đoạt một cách tàn nhẫn của Mị.

- Nhưng vì thương cha Mị bỏ ý định tự tử và quay về nhà Thống Lí. Để rồi “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” cô không còn nghĩ đến cái chết. Tâm hồn chai sạn, Mị sống câm lặng trong nhà thống lí.

Khi mùa xuân đến, khát vọng tự do, hạnh phúc trong Mị được khơi dậy mạnh mẽ:

- Khung cảnh ngày Tết “cỏ gianh vàng ửng”, “những chiếc váy hoa đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”, tiếng “cười ầm” của đám trẻ đợi Tết chơi quay, chơi pao trên sân chơi trước nhà, đặc biệt “Tiếng sáo rủ bạn đi chơi”, lấp ló ở ngoài đầu núi đã làm cho Mị thấy “thiết tha bổi hổi”, Mị ngồi “nhẩm thầm bài hát” của người đang thổi. Có lẽ cuộc sống đang bừng tĩnh trong Mị, lòng ham sống của Mị đang trỗi dậy.

- Tiếng sáo gọi bạn tình đã tác động mãnh liệt đến tâm hồn Mị, như ngọn gió thổi bừng lên ngọn lửa tưởng đã tắt lịm, tạo cho Mị có cái gan để Mị có những suy nghĩ và hành động khác thường.

+ Ngày Tết Mị cũng uống rượu. Mị “lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống rượu của Mị như thế cô đang uống đi bao cay đắng, tủi nhục của phần đời đã qua, uống luôn cả cái khát khao phần đời chưa tới.

+ Ngồi trong nhà thống lí những tiếng sáo gọi bạn ở đầu làng đã đánh thức kí ức thời con gái “Mị thổi sáo giỏi”, “thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.

+ Mị sống dậy với tâm hồn đầy khát khao “thấy phơi phới” trở lại, Mị thấy “vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Điều đó đã khiến Mị ý thức về mình “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi” để nhận ra tuổi xuân của mình đang bị vùi dập, cuộc hôn nhân của mình không hạnh phúc “A Sử với Mị không có lòng mà vẫn phải ở với nhau”. Để rồi Mị lại nghĩ đến việc ăn lá ngón cho chết đi “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra”.

+ Hành động “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” giàu sức gợi, Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối hay Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.

+ Lòng ham sống, khát vọng sống trỗi dậy mạnh mẽ trong Mị. Tiếng sáo “rập rờn” trong đầu đã thôi thúc Mị quyết tâm thực hiện ý định “Mị muốn đi chơi”, “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” để chuẩn bị đi chơi.

- Nhưng khát vọng sống vừa hồi sinh của Mị đã bị vùi dập một cách tàn nhẫn. A Sử trói đứng Mị vào cột nhà thật dã man. A Sử chỉ có thể trói được thể xác Mị vào cột nhà, còn tâm hồn Mị “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Sức mạnh bạo tàn của giai cấp thống trị làm sao có thể trói được tâm hồn Mị, một khi ý thức và khao khát hạnh phúc trỗi dậy? Nhưng âm thanh “Tiếng chân ngựa đạp vào vách” đã kéo Mị trở về với thực tại phũ phàng tay chân đang bị “dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt”. Hai âm thanh tiếng sáo và tiếng chân ngựa đạp vào vách đã tạo nên sự đối lập giữa khát vọng tự do mãnh liệt và hiện thực phũ phàng, cay đắng khiến cho nỗi đau số phận ở Mị càng thêm phần dữ dội khi cô nhận ra “… mình không bằng con ngựa”. Suốt đêm bị trói đứng, Mị lúc mê, lúc tỉnh, Mị sống trong sự giằng xẻ giữa khát khao cuộc sống tự do và thực tại nghiệt ngã cho đến khi tỉnh hẳn, Mị nhớ tới câu chuyện người đàn bà ngày trước bị trói đến chết trong nhà thống lí. Mị sợ quá, cựa quậy xem mình còn sống hay chết.

⇒ Ngòi bút phân tích tâm lí của nhà văn thật tinh tế sâu sắc. ông len lỏi vào từng mạch vi bên trong nội tâm để miêu tả sự uyển chuyển tinh vi của tâm hồn Mị. Người đọc như đang chứng kiến từng bước sự hồi sinh trong tâm hồn Mị. Diễn biến tâm trạng của Mị cho ta thấy niềm khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt của người lao động miền núi. Mặc dù bị thực tại bóp nghẹt nhưng niềm khao khát ấy vẫn tiềm tàng mạnh mẽ. để khi có cơ hội lên bùng lên mãnh liệt hơn.

Đêm mùa đông Mị cứu A Phủ, sức phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt:

- A Phủ một thanh niên khỏe mạnh, tài giỏi nhưng không thể lấy nổi vợ vì mồ côi cha mẹ, nhà nghèo, không có ruộng, không có bạc. Vì đánh A Sử bị thương nên bị bắt và bị phạt vạ. A Phủ không có tiền phạt vạ nên phải trợ thành nô lệ trả nợ cho nhà thống lí. A Phủ đi chăn bò, vì mải mê bẫy nhím, để hổ vồ mất một con bò mà bị cha con thống lí trói đứng vào cột đã mấy ngày đêm.

- Ban đầu, nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột, Mị “vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”, “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Có lẽ cuộc sống đau khổ làm cho cô Mị tài hoa, xinh đẹp ngày nào đã lãnh đạm, tê liệt cảm xúc, không quan tâm đến những gì xung quanh mình. Vả lại những thân phận nô lệ bị trói đứng cho đến chết trong nhà này dường như không phải mới xảy ra.

- Nhưng đêm hôm sau, khi ánh lửa vừa mới nhen lên, Mị “lé mắt trong sang” nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hỏm má đã xám đen lại” Mị nhớ lại tình cảnh mình bị trói đứng một năm về trước, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không thể lau đi được. Mị đang xót thương thân mình. Rồi Mị thương người cùng cảnh ngộ “cơ chừng chỉ đến đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét… Người kia việc gì phải thế”. Mị nhận rõ bản chất độc ác của Pá Tra “trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết… chúng nó thật độc ác”. Mị xúc động, thương mình và thương người cùng cảnh ngộ, đồng cảm với nỗi đau của A Phủ

- Cuối cùng: Mị rón rén bước lại, “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”, cởi trói cho A Phủ. Rõ ràng, khi lòng thương người lớn hơn lòng thương thân người ta có thể hi sinh bản thân mình. Thế nhưng khi A Phủ đi rồi, bản năng tự vệ đến với Mị “Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũng vụt chạy ra”. Mị đã chạy theo A Phủ với lời giải thích đơn giản “ở đây thì chết mất” và “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi” → sự phản kháng mãnh liệt, quyết liệt, táo bạo. Cởi trói cho A Phủ, thực chất là Mị đang cởi bỏ xiềng xích đè lên trên cuộc đời của mình và hành động chạy theo A Phủ là Mị đang chạy theo tiếng gọi của cuộc sống. Tình thương, sự đồng cảm giai cấp và niềm khát khao tự do mãnh liệt… đã thôi thúc Mị có một quyết định táo bạo cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát cuộc đời mình.

⇒ Diễn biến tâm trạng của Mị khá phức tập nhưng hợp lí. Người đọc được thuyết phục hoàn toàn trước những suy nghĩ và hành động của cô. Sức sống tiềm tàng trong tâm hồn cô đã trỗi dậy mãnh liệt. Hành động cắt đứt dây trói cho A Phủ rồi trốn theo A Phủ để tự cứu mình là hành động tất yếu của những con người luôn bị chế độ thống trị áp bức bất công. Đó cũng chính là vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mạnh mẽ, khả năng cách mạng của người lao động Tây Bắc.

2. Nhân vật A Phủ

a, Số phận:

- Thuở nhỏ:

+ Vốn là một đứa trẻ mồ côi.

+ Khi làng đói đã đem A Phủ đi đổi lúa.

+ Mười tuổi nhưng gan bướng, không thích ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trèn lưu lạc đến Hồng Ngài.

- Lớn lên:

+ A Phủ trở thành một chàng trai khoẻ mạnh “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”.

+ Nhiều cô gái trong làng mê nhưng A Phủ không lấy được vợ vì A Phủ không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc, nghèo, làm thuê và tục lệ cưới xin ngặt.

→ Số phận bất hạnh, bi thảm, không may mắn.

b, Tính cách:

– Cuộc sống núi rừng hoang dã, cảnh làm thuê ở đợ cực nhọc, vất vả đã hun đúc nên cá tính gan góc, mạnh mẽ và táo bạo của A Phủ.

– Hành động đánh A Sử:

+ “Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi. A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi”. Một người to lớn chạy vụt qua ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp” → hàng loạt các dộng từ miêu tả dộng tác nhanh, gấp → cho thấy sức mạnh và tính cách con người A Phủ qua hành động.

– Tính tình đơn giản, không nghĩ đến hậu quả khi đánh A Sự. Khi làm người ở trừ nợ, làm phăng phăng mọi việc thống lí giao. Khi rừng đói, mải lo bẫy nhím, để hổ vồ mất bò, A Phủ điểm nhiên vác nửa con bò hổ ăn dở về, mượn súng thống lí đi bắt hổ để đền bò. Kể cả khi lấy cọc và dây mây, rồi đóng cọc để thống lí trói đứng mình, A Phủ vẫn thản nhiên.

– Lúc xử kiện:

+ Bị bắt về nhà thống lí Pá Tra xử lí, bị đánh đập một cách tàn nhẫn: Khi bị đánh: “im như đá”; bị trói:“mắt trừng trừng” → gan góc chịu đựng.

– Về làm công gạt nợ:

+ Trở thành con ở đời đời, kiếp kiếp cho nhà thống lí Pá Tra: “đốt rừng, cày nương….”, ‘chăn bò” → phải làm việc quần quật không lúc nghỉ ngơi

+ Để hổ ăn mất bò nhưng không hề lo sợ, thản nhiên tin vào cái lý của mình → A Phủ bị trói đứng suốt mấy ngày đêm.

+ Được Mị giải thoát: khuỵ xuống (hợp lý) nhưng đã quật sức vùng lên, chạy.. Chính sức sống tiềm ẩn trong con người, lòng khát khao được sống đã chiến thắng nỗi đau thể xác.

⇒ Với góc nhìn từ bên ngoài, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật A Phủ: một con người có tính cách gan góc, mạnh mẽ, pha chút ngang tàng, táo bạo mà cũng chất phác, tự tin. Anh cũng là nạn nhân của bọn chúa đất quan lại thống trị tàn bạo, độc ác. Trong anh cũng tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng dữ dội → một hình tượng điển hình của người dân miền núi vùng Tây Bắc bị áp bức, bóc lột.

+ Nếu nhà văn nhìn Mị ở góc nhìn từ bên trong, thì đến nhân vật A Phủ nhà lại nhìn từ góc nhìn bên ngoài để thấy tính cách mạng mẽ pha chút ngang tàng ở nhân vật A Phủ → đặc sắc về bút pháp nghệ thuật của tác giả không phải ai cũng làm được

+ Ngoài ra cũng cần kể đến: nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán rất đặc sắc; miêu tả thiên nhiên miền núi hùng vĩ, thơ mộng, giàu chất thơ; con người hồn nhiên, ngay thẳng nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt (chủ yếu theo trình tự thời gian, đôi lúc đan xen hồi ức một cách tự nhiên, có lúc pha trộn quá khứ với hiện tại ). Đây chính là yếu tố cốt lõi làm nên sự thành công của tác phẩm.

– Sở trường quan sát và khả năng nhạy bén trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố đã giúp nhà văn chỉ với mất nét đơn sơ mà tạo dựng thành công một hình tượng đặc sắc. Phản ánh số phận đau thương của A Phủ và Mị, Tô Hoài đã tố cáo tội ác của bọn chúa đất dã man tàn bạo, đồng thời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người nghèo miền núi. Sự vùng dậy của Mị và A Phủ tuy chỉ là sự vùng dậy tự phát nhưng cũng là cơ sở để sau này khi được giác ngộ cách mạng, họ đã đi theo Đảng để giải phóng cho mình và cho cả quê hương đất nước.

icon-date
Xuất bản : 17/02/2022 - Cập nhật : 24/02/2022