logo

Lý thuyết chủ nghĩa trọng thương

icon_facebook

Chủ nghĩa trọng thương là một hệ thống kinh tế thương mại tồn tại từ thế kỉ 16 đến thế kỉ 18. Cùng tìm hiểu thêm về Chủ nghĩa trọng thương thông qua “Lý thuyết Chủ nghĩa trọng thương” do Top lời giải biên soạn dành cho các bạn học sinh và thầy cô giáo tham khảo.


1. Khái niệm Chủ nghĩa trọng thương.

Chủ nghĩa trọng thương trong tiếng Anh là Mercantilism.

Chủ nghĩa trọng thương là một hệ thống kinh tế thương mại tồn tại từ thế kỉ 16 đến thế kỉ 18. Chủ nghĩa trọng thương dựa trên nguyên tắc là của cải của thế giới không biến động, và do đó, nhiều quốc gia châu Âu đã cố gắng tích lũy của cải thế giới bằng cách tối đa hóa hoạt động xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu thông qua thuế quan.

Lý thuyết chủ nghĩa trọng thương chi tiết nhất

2. Bối cảnh ra đời của học thuyết trọng thương.

Học thuyết trọng thương hình thành và phát triển ở châu Âu, mạnh mẽ nhất là ở Anh và Pháp từ giữa thế kỉ XV, suy tàn vào giữa thế kỉ XVHI.

về mặt kinh tế - chính trị, đây là thời kì cuối của phương thức sản xuất phong kiến, thời kì đầu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Với tàn dư của phương thức sản xuất phong kiến, nền kinh tế còn mang đậm tính chất tự cung tự cấp, hầu như không có nguồn vốn tích lũy. Để tích lũy nguồn vốn này, giai cấp tư sản sử dụng nhiều biện pháp, trong đó có một số biện pháp cơ bản như: Buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các khu vực, đặc biệt là buôn bán nô lệ da đen đem lại lợi nhuận rất lớn cho các nhà tư bản; Sử dụng sức mạnh quân sự để mua được hàng hóa với giá rẻ mạt rồi đem bán thu lợi nhuận rất cao; Sử dụng bạo lực tước đoạt ruộng đất của nông dân, biến thành các đồng cỏ chăn nuôi cừu, lấy lông sản xuất len dạ thu lợi nhuận. Nông dân chỉ còn con đường đi bán sức lao động của mình để kiếm sống (điển hình ở Anh từ thế kỉ XVI); Ở nhiều thành thị, các thợ thủ công do rủi ro buôn bán, do vay nặng lãi, thuế khóa đã bị mất tư liệu sản xuất phải đi làm thuê.

Như vậy, có thể thấy, giai cấp tư sản đã thực hiện tích lũy nguyên thủy bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó biện pháp quan trọng là việc trao đổi, mua bán hàng hóa quốc tế không ngang giá, mua rẻ bán đắt, mua ít bán nhiều nhằm thu lợi. Do đó, cần thiết phải có một lý thuyết kinh tế làm cơ sở lý luận, giải thích cho hoạt động thương mại quốc tế thời kì này của chủ nghĩa tư bản. Học thuyết trọng thương đã ra đời trong bối cảnh đó.

Về các phát kiến địa lý, thời kì này chứng kiến nhiều phát kiến địa lý vĩ đại trong lịch sử loài người và có tác động to lớn tới sự ra đời hoạt động thương mại quốc tế. Như: năm 1492, Christopher Columbus tìm ra châu Mỹ, góp phần mở rộng các tuyến đường hàng hải, mở rộng giao thương với Hoa Kỳ, Mexico...; năm 1498, Vasco Da Gama tìm ra con đường biển đến Ẩn Độ, góp phần tạo cơ hội cho Bồ Đào Nha có thể giao thương với Ấn Độ và các nước Nam Á khác.

Trong thời kì cổ đại, vùng Địa Trung Hải đã rất phát triển các hoạt động thương mại, lưu thông tiền tệ, nhưng các hoạt động này chủ yếu diễn ra trong khu vực. Hay “con đường tơ lụa”, một hệ thống những con đường thương mại lớn nhất thể giới thời cổ đại, nó được coi như cầu nối giữa hai nền văn minh Đông và Tây, nhưng con đường này cũng chỉ giới hạn phạm vi thương mại hàng hóa trong một khu vực địa lý nhất định. Việc tìm ra những con đường hàng hải có ý nghĩa rất quan trọng trong vận chuyển hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế phát triển trên phạm vi toàn cầu.

Các học giả tiêu biểu cho chủ nghĩa trọng thương: Thomas Mun, James Stewart (người Anh) và Jean Bordin, Melon, Jean Colbert (người Pháp)...


3. Chủ nghĩa trọng thương và Chủ nghĩa đế quốc

Các chính phủ theo chủ nghĩa trọng thương thao túng nền kinh tế của các quốc gia khác để tạo ra cán cân thương mại có lợi cho nước mình. 

Chủ nghĩa đế quốc sử dụng sự kết hợp giữa lực lượng quân sự và nhập cư hàng loạt để cưỡng ép việc du nhập chủ nghĩa trọng thương vào các khu vực kém phát triển, nhằm làm cho cư dân bản địa tuân theo luật pháp của quốc gia thống trị. 

Một trong những ví dụ nổi bật nhất về mối quan hệ giữa chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa đế quốc là việc Anh thành lập các thuộc địa ở Mỹ. 


4. Chủ nghĩa trọng thương và Thương mại tự do

Thương mại tự do mang lại một số lợi thế khác biệt cho các cá nhân, doanh nghiệp và quốc gia. 

Trong một hệ thống thương mại tự do, các cá nhân được hưởng lợi từ sự lựa chọn nhiều hơn về hàng hóa giá cả phải chăng, trong khi chủ nghĩa trọng thương hạn chế nhập khẩu và giảm các lựa chọn có sẵn cho người tiêu dùng, đồng nghĩa với ít cạnh tranh và giá cả hàng hoá cao hơn.


5. Đánh giá học thuyết trọng thương

a. Ưu điểm của học thuyết trọng thương

Đây là học thuyết đầu tiên đề cao vai trò của thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế. Tư tưởng đề cao thương mại tiến bộ hơn các trào lưu tư tưởng phong kiến đương thời - vốn coi thường thương mại và chỉ coi trọng sản xuất tự cung tự cấp, đặc biệt là coi trọng sản xuất nông nghiệp và khai thác. Có thể coi học thuyết trọng thương là tuyên ngôn tư tưởng của chủ nghĩa tư bản giai đoạn tích luỹ ban đầu.

Thấy được vai trò của Nhà nước trong điều tiết hoạt động ngoại thương nói riêng và hoạt động kinh tế nói chung thông qua các công cụ như thuế quan, hạn ngạch, độc quyền trong ngoại thương...

Lần đầu tiên trong lịch sử, lý thuyết về kinh tế được nâng lên như là lý thuyết khoa học, khác hẳn với các tư tưởng kinh tế thời trung cổ giải thích các hiện tượng kinh tế bằng quan niệm tôn giáo.

b. Nhược điểm của chủ nghĩa trọng thương 

Đã nhìn nhận thương mại như một trò chơi có tổng bằng  không (zero-sum game – nghĩa là lợi ích mà một nước thu được chính bằng thiệt hại mà nước khác mất đi.)  Hạn chế này đã được các lý thuyết của Adam Smith và David Ricardo ra đời sau đó chỉ rõ và khẳng định thương mại là một trò chơi có tổng lợi ích là số dương (positive-sum game –tất cả các nước đều thu được lợi ích.) Đáng tiếc là tư tưởng của thuyết trọng thương không hề bị mất đi. Các nhà trọng thương mới (neo-mercantilists) cân bằng sức mạnh chính trị với sức mạnh kinh tế và sức mạnh kinh tế với thặng dư trong cán cân thương mại. Những nhà phê bình lập luận rằng nhiều nước đã áp dụng chiến lược trọng thương mới được đưa ra để đồng thời nhằm thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Ví dụ, những người chỉ trích cho rằng Trung Quốc theo đuổi chính sách trọng thương mới bằng cách giữ giá trị đồng Nhân dân tệ của họ ở mức giá thấp so với đồng Đô la Hoa Kỳ một cách có chủ đích nhằm bán được nhiều hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ hơn, và do đó tích lũy được một lượng lớn thặng dư thương mại và dự trữ ngoại hối khổng lồ.

icon-date
Xuất bản : 06/04/2022 - Cập nhật : 09/06/2022

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads