Câu trả lời đúng nhất: Ở đời, ai cũng mong mình giàu sang phú quý, thế nhưng nếu có được rồi mà không biết tu nhân thì sẽ bị quả báo. Vậy nên có câu "Không ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời"
Thành ngữ là một tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói cũng như sáng tác thơ ca văn học tiếng Việt. Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao.
Việc nói thành ngữ là một tập hợp từ cố định có nghĩa là thành ngữ không tạo thành câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, cũng không thể thay thế và sửa đổi về mặt ngôn từ. Thành ngữ thường bị nhầm lẫn với tục ngữ và quán ngữ.
Trong khi tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý nhằm nhận xét quan hệ xã hội, truyền đạt kinh nghiệm sống, hay phê phán sự việc, hiện tượng. Một câu tục ngữ có thể được coi là một tác phẩm văn học khá hoàn chỉnh vì nó mang trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học là chức năng nhận thức, và chức năng thẩm mỹ, cũng như chức năng giáo dục. Còn quán ngữ là tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành.
Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của thành ngữ “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, mời các bạn đến với phần nội dung dưới đây nhé.
Có câu chuyện kể rằng:
“Vào thời nhà Hán có một vị quan lớn. Quan lớn vào thời ấy đều thuộc giai tầng quý tộc hoặc là hoàng thân quốc thích chứ người bình dân thì không đủ tư cách. Họ từ nhỏ đã được cấp đất đai, tài sản, học tri thức. Vào thời Hán, đại đa số người thuộc hàng quý tộc, quan lại, dù ít hay nhiều cũng hiểu biết về học thuyết âm dương, hiểu biết vận mệnh. Vị quan này có gia sản lớn, con cháu đầy đàn nhưng lại thường mang vẻ u sầu trong lòng. Ông thường xuyên thở dài, lộ rõ vẻ lo lắng ra mặt. Một lần, ông ngẫu nhiên gặp một lão nông dân.
Ông lão nông dân này biết rõ vị quan lớn kia nên hỏi:
“Ngài đã giàu có như thế, tiền của mấy đời con cháu cũng tiêu không hết, sao ngài còn phải thở dài?”
Vị quan lớn này nói:
“Ông nhìn hai đời sau trong nhà ta mà xem, đời sau lại không bằng đời trước, thực sự là giàu không thể quá ba đời.Khi cháu trai bằng tuổi của ta, e rằng sẽ tiêu hết gia sản, nói không chừng còn có họa sát sinh.”
Ông lão nông dân không hiểu, vị quan lớn lại giải thích: “Ta quan sát và đoán biết được, thế hệ sau trong gia tộc nhà ta, từ nhỏ chúng đã được hậu đãi nên từ nhỏ chúng cũng đã tùy tiện làm xằng bậy,dưỡng thành thói quen hưởng thụ. Hai đời sau này việc gì cũng không làm, chúng cảm thấy hết thảy những gì chúng đang hưởng đều là những thứ nên được. Loại nhận thức ấy, sớm hay muộn cũng dẫn đến vong bại thôi.” Nói xong, vị quan lớn lại chỉ vào ông lão nông dân còn đang trơ mắt nhìn, nói: “Ông đã sống đến tuổi này rồi, trên mặt nhiều nếp nhăn vàng, nên chắc chắn cả đời đã làm không ít việc thiện. Vô luận là ông hiện tại khổ bao nhiêu thì sau này con cháu đều được hưởng âm đức của ông mà giàu sang bấy nhiêu.”
Câu chuyện xưa nói cho chúng ta một đạo lý rằng, giàu và nghèo là có sự biến hóa. Nếu một người tích lũy nhiều hơn, cần kiệm hơn thì tự nhiên sẽ có phú quý và được hưởng thụ. Còn một người chỉ lo hưởng thụ nhiều hơn, thì tự nhiên cũng sẽ khốn cùng, rách rưới.
Theo như ông bà xưa thì vận mệnh con người luôn thay đổi, bất biến theo thời gian, không ai mãi nghèo mà cũng chẳng có ai là mãi giàu. Trong xã hội, có người làm ăn phát đạt, tiền chất như núi, địa vị cao sang nhưng chẳng được bao lâu thì bị truy tố pháp luật vì tham ô, lừa đảo… hay ăn chơi, cờ bạc mà tiêu tán hết. Còn có người nghèo thì lại biết phấn đấu để đổi đời, cần cù đến mấy cũng có ngày thành công.
Không ai có thể lường trước được tương lai ra sao, chỉ có vận mệnh là thay đổi theo tính cách, hành vi, lối sống ác hay thiện của mỗi người mà nhận phúc báo hay quả báo mà thôi. Chính vì vậy mới có câu nói: Không ai giàu ba họ không ai khó ba đời.
>>> Xem thêm: Câu tục ngữ không ai giàu ba họ không ai khó ba đời đề cập đến phương pháp luận nào của triết học
Đời đầu tiên thường rất cố gắng vất vả tạo dựng cơ nghiệp, nhưng đến đời thứ 2, con cái bắt đầu tiêu tán tài sản, dùng tiền mà cha mẹ kiếm được để vui chơi hưởng lạc thú, đến đời thứ 3, cháu chắt càng biết hưởng lạc nhiều hơn, chính vì thế mà gia nghiệp lụi tàn, tài sản dần cạn kiệt. Tại sao vậy? Bởi vì con người thường không coi trọng đạo lý tu thân, tích đức hành thiện, xem nặng tiền tài, sự nghiệp mà xem nhẹ giáo dục tạo ra.
Với những gia đình giàu có, việc dạy bảo trẻ về luật nhân quả ở đời không được coi trọng. Họ thường mua thứ ngon thứ tốt để con cháu hưởng thụ. Giáo dục con cháu theo cách này sẽ khiến chúng tiếp nhận rất nhiều thói hư tật xấu.
Người xưa có giảng, muốn gia tộc hưng thịnh thì cần giáo dục con cái thật nghiêm khắc. Dạy cho trẻ biết coi trọng đạo đức hành thiện một cách cẩn thận. Đây mới là phương pháp để bảo vệ con cháu tốt nhất.
Nếu chỉ biết cho con cháu tiền chi tiêu hoang phí, trẻ sẽ không có năng lực tự vệ mà giao lưu với đám bạn xấu, làm ra nhiều việc đồi bại đạo đức, từ đó mà bị hủy đi. Do vậy cần phải giáo dục con cái nghiêm khắc ngay từ khi còn nhỏ, vừa dạy về đạo đức con người, vừa dạy những kiến thức xã hội để biết phân biệt tốt xấu. Dạy trẻ một cách nghiêm khắc hai phương diện này thì khi trưởng thành, chúng không chỉ có năng lực kế thừa sự nghiệp mà còn có thể khiến gia tộc ngày càng hưng thịnh.
Những bậc cha mẹ cần hiểu một đạo lý, đừng biến tiền thành vật phẩm duy nhất để lại cho con cháu, mà nên giáo dục cho chúng biết làm thế nào để gìn giữ cơ nghiệp của tổ tiên không bị suy vong, phúc đức mãi bền lâu. Đây cũng chính là quá trinh giúp trẻ tu thân, tu tâm, hành thiện, giữ được tinh thần vượt khó vươn lên. Chỉ cần có phúc đức, có lòng hướng thiện vượt khó, trẻ sẽ có năng lực tự mình gây dựng cơ nghiệp. Cho trẻ một sự giáo dục tốt sẽ tốt hơn rất nhiều khi cho chúng tiền bạc.
Giáo dục tốt sẽ giúp trẻ chọn được con đường làm giàu ngay chính, dùng chính sức lực của bản thân mà sáng tạo tương lai, làm giàu cho xã hội. Có vậy, con cháu đời đời mới được hưng thịnh và gia tộc mãi giàu có, trước là làm lợi cho con cái, sau là lợi cho cháu chắt. Với tư cách là cha mẹ, chúng ta muốn nuôi dưỡng phúc đức cho con thì nên làm nhiều việc thiện, giúp đỡ người khác, có ích cho xã hội. Có vậy, con cái mới nhìn vào tầm gương của cha mẹ và hiểu được đạo lý này.
Đây là một lời tiên tri bí ẩn dành cho những người “kém may mắn”, sinh ra trong một gia đình nghèo. Người xưa muốn dùng câu này để nhắc nhở ý chí của những người nghèo, mong muốn họ nghị lực để có thể vượt qua khó khăn. Con người dù có nghèo đến mấy thì chỉ cần có tri thức, sự chăm chỉ, phấn đấu, sống thiện thì chắc chắn sẽ được trời ban phúc lộc, đền đáp xứng đáng.
Trong xã hội có rất nhiều người đã nghèo còn lười, hay bất mãn, cái gì cũng đổ tội số phận, nhụt chí và lười biếng thì sẽ chẳng bao giờ có cơ hội làm nên chuyện lớn, thay đổi vận mệnh cả. Người này muôn đời sống dưới đáy xã hội, nghèo từ vật chất tới tinh thần khiến con cháu đời sau cũng khổ sở theo.