logo

Đọc hiểu Thương nhớ mười hai (đặt vào ngày cuối đông, Tự nhiên như thế ai cũng chuộng mùa xuân)

icon_facebook

Nói về “Thương nhớ mười hai” là nói về 12 tháng trong năm của Hà Nội, có cảnh vật, ẩm thực, phong tục, tập quán của người Bắc Việt. Bên cạnh đó, thông qua các hình ảnh đẹp, tinh tế nhưng đượm buồn nhà văn còn bày tỏ nỗi nhớ, tình cảm của mình với người thân và quê hương. Mười hai tháng thương nhớ của Vũ Bằng là hình ảnh của Hà Nội xuân, hạ, thu, đông; là một Hà Nội đặc trưng với tháng giêng trăng non rét ngọt; của tháng hai tương tư hoa đào; hay của tháng chín, gạo mới, chim ngói; rồi của tháng chạp, nhớ ơi chợ Tết.

Toploigiai đã sưu tầm và biên soạn lại toàn bộ các ngữ liệu được trích từ tác phẩm Thương nhớ mười hai. Hi vọng tài liệu này giúp thầy/ cô và các em có tư liệu ôn thi hiệu quả.


01. Đọc hiểu đoạn trích Đặt vào ngày cuối Đông đầu Xuân


Đề số 1

Đặt vào ngày cuối Đông đầu Xuân, ngày Tết Nguyên Đán còn có một thâm ý sâu xa hơn nữa; theo Từ Nguyên, xuân có nghĩa là “trai gái vừa lòng nhau”, xuân là cựa động, băng giá tan hết, muôn vật đến mùa xuân đều cựa động mà sống lại. Từ quan niệm ấy, người mình tiến đến tín ngưỡng thờ Thần Đất. Họ tin rằng trong không, thời gian mà Thần Đất vắng mặt trên trần thì không ai được động chạm đến đất như cày bừa cuốc xới lên hay giã gạo làm cho vang động đất. Ngày Tết, do đó, có ý nghĩa là đón đợi sự trở về của Thần Đất: người ta chờ lúc cây cối đâm lộc nảy mầm, muôn vật trở lại cuộc sống bình thường, chỉ sợ vì một cớ gì bí mật, không phồn thịnh và sản xuất như xưa nữa. Họ tin rằng nếu không kiêng kị thì Thần Đất không phù hộ loài người và sẽ làm cho cây cối, con người, súc vật, của cải không thể nào phát triển (…)

Có ai ở tỉnh thành ăn Tết ngày mồng một rồi đến mồng hai, mồng ba đi về những vùng đất thơm ngát hoa đồng cỏ nội mới thật thấy cái tết của ta đẹp biết ngần nào, êm ái biết ngần nào. Người nông dân vất vả quanh năm, được mấy ngày ấy nhất định nghỉ không ra đồng. Chè chén đã đành rồi, nhưng tội gì mà chẳng vui chơi để giải quyết sự thèm khát giải trí mà vua quan ngày trước không hề nghĩ tổ chức bao giờ. Vì thế, nghe thấy đầu xuân có hát tuồng cổ “Quan Vân Trường quá ngũ quan trảm lục tướng” hay “Dự Nhượng tam đả long bào”, ở cách xa nơi họ ở dăm mười cây số, họ cũng cố đi xem cho kì được (…). Tại vài làng mát mặt ở Bắc Việt, các đàn anh vào dịp tết vẫn rủ nhau rước ảo đào, tuồng cổ, phường chèo về diễn (…).

Ngày Tết, bước ra khỏi Hà Nội một hai cây số ta có thể thấy ở bất cứ làng nào cũng có trồng một vài cây đu để cho trai gái trong làng hay những vùng quanh đấy đến dún dẩy với nhau (…). Cây đu làm bằng tám cọc tre, trồng rất chắc dưới đất vì trồng càng chắc thì dún càng khỏe. Cái ngáng đu vận bằng rơm, giữ hai hàng cột gioãng ra hai bên (…). Đu càng cao, các cô, các cậu càng đưa mạnh. Các cậu cố dún. Các cô ưỡn thêm lên (…). Đu lên bổng, chiếc áo nâu non của cô gái dan díu với chiếc áo the thâm của chàng trai, đôi giải yếm lụa quấn quýt lấy chiếc quần hồ trắng bốp… hai lá cờ đuôi nheo cũng phải rung lên một cách đa tình (…)

Ai đã ở Bắc vui mấy ngày xuân, thế nào mà chẳng có lúc đã nghe thấy người ta hát:
Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy,

Vui thì vui vậy chẳng tày Giã La… (…)

Ngày Tết ở Bắc, rỗi rãi mà đi xem hết hội này đến lễ kia như thế, phải nói thật quả là mình sung sướng như tiên. Tết đi thăm nhau, chúc mừng nhau, uống rượu ăn mứt, ăn kẹo với nhau, đánh cờ đánh kiệu với nhau, vui quá thể, ai mà lại còn không biết; nhưng vui thấm thía, vui ý nghĩa, vui sâu xa thì phải nói thực, đó là nhờ những đám rước, những tục cổ, những trò chơi như thế.

Xin Trời Phật phù hộ cho không bao giờ có những ngày xuân, ngày tết không có hoa và bướm, không bao giờ có những người không được thương yêu; không bao giờ có những cây không nảy lộc, những cặp mắt không sáng ngời và cũng không bao giờ lại có những con người xảo trá, tham tàn, độc ác…

(Trích “Tết, Hỡi cô mặc cái yếm xanh”, “Thương nhớ mười hai”, Vũ Bằng, Nxb Văn học)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Trong văn bản, từ “xuân” được giải thích là gì?

Câu 2. Nêu hiệu quả của phép tu từ liệt kê được sử dụng trong câu văn sau: Tết đi thăm nhau, chúc mừng nhau, uống rượu ăn mứt, ăn kẹo với nhau, đánh cờ đánh kiệu với nhau, vui quá thể, ai mà lại còn không biết; nhưng vui thấm thía, vui ý nghĩa, vui sâu xa thì phải nói thực, đó là nhờ những đám rước, những tục cổ, những trò chơi như thế.

Câu 3. Nhận xét về mong ước của tác giả khi Tết đến, xuân về qua đoạn văn sau: Xin Trời Phật phù hộ cho không bao giờ có những ngày xuân, ngày tết không có hoa và bướm, không bao giờ có những người không được thương yêu; không bao giờ có những cây không nảy lộc, những cặp mắt không sáng ngời và cũng không bao giờ lại có những con người xảo trá, tham tàn, độc ác…

Câu 4. Hiện nay có quan điểm cho rằng nên bỏ Tết truyền thống. Anh/chị có đồng tình với quan điểm này không? Vì sao?

GỢI Ý

Câu 1. Trong văn bản, từ “xuân” được giải thích là:

- xuân có nghĩa là “trai gái vừa lòng nhau”,

- xuân là cựa động, băng giá tan hết, muôn vật đến mùa xuân đều cựa động mà sống lại.

Câu 2. Nêu hiệu quả của phép tu từ liệt kê được sử dụng trong câu văn sau: Tết đi thăm nhau, chúc mừng nhau, uống rượu ăn mứt, ăn kẹo với nhau, đánh cờ đánh kiệu với nhau, vui quá thể, ai mà lại còn không biết; nhưng vui thấm thía, vui ý nghĩa, vui sâu xa thì phải nói thực, đó là nhờ những đám rước, những tục cổ, những trò chơi như thế.

- Phép liệt kê được sử dụng trong câu văn: liệt kê các việc làm, trò chơi ngày Tết: đi thăm nhau, chúc mừng nhau, uống rượu ăn mứt, ăn kẹo với nhau, đánh cờ đánh kiệu.

- Hiệu quả:

+ Kể ra một cách đầy đủ những việc làm, thú vui ngày Tết;

+ Làm cho câu văn giàu nhịp điệu, hình ảnh, sinh động;

+ Thể hiện tâm trạng vui tươi, háo hức của tác giả khi Tết đến.

Câu 3. Nhận xét về mong ước của tác giả khi Tết đến, xuân về qua đoạn văn sau: Xin Trời Phật phù hộ cho không bao giờ có những ngày xuân, ngày tết không có hoa và bướm, không bao giờ có những người không được thương yêu; không bao giờ có những cây không nảy lộc, những cặp mắt không sáng ngời và cũng không bao giờ lại có những con người xảo trá, tham tàn, độc ác…

- Mong ước của tác giả khi Tết đến, xuân về qua đoạn văn: ngày nào cũng có bướm hoa; ai cũng được thương yêu; cây cối đâm chồi nảy lộc; không còn người xảo trá, tham tàn, độc ác.

- Đó là mong muốn về cuộc sống tươi đẹp dành cho mọi người của một con người yêu đời, yêu người. Mong muốn đó được bộc lộ trực tiếp, chân thành, sâu sắc.

Câu 4. Hiện nay có quan điểm cho rằng nên bỏ Tết truyền thống. Anh/chị có đồng tình với quan điểm này không? Vì sao?

- HS bày tỏ quan điểm: đồng tình/ không đồng tình/ cả hai

- Lí giải cho sự lựa chọn ấy.

+ Nếu không đồng tình, có thể lí giải như sau:

++ Đây là phong tục cổ truyền của dân tộc;

++ Là dịp để mọi người trong gia đình sum họp, đoàn viên; là dịp để con cháu thể hiện lòng biết ơn với cha mẹ, ông bà;

++ Là thời gian nghỉ ngơi cần có để giảm căng thẳng trong công việc;

++ Là dịp để kích cầu kinh tế, thu hút khách du lịch do lệch với các ngày lễ của Phương Tây…

+ Nếu có đồng ý thì có thể lí giải theo hướng:

++ Quá tốn kém và lãng phí;

++ Đảo lộn lịch trình làm việc, học tập của mọi người;

++ Gia tăng tai nạn do rượu bia; nạn cờ bạc…

+ Nếu vừa đồng ý vừa không: Kết hợp hai các lí giải trên.


Đề số 2

(1) Đặt vào ngày cuối Đông đầu Xuân, ngày Tết Nguyên Đán còn có một thâm ý sâu xa hơn nữa; theo Từ Nguyên, xuân có nghĩa là “trai gái vừa lòng nhau”, xuân là cựa động, băng giá tan hết, muôn vật đến mùa xuân đều cựa động mà sống lại. Từ quan niệm ấy, người mình tiến đến tín ngưỡng thờ Thần Đất. Họ tin rằng trong không, thời gian mà Thần Đất vắng mặt trên trần thì không ai được động chạm đến đất như cày bừa cuốc xới lên hay giã gạo làm cho vang động đất. Ngày Tết, do đó, có ý nghĩa là đón đợi sự trở về của Thần Đất: người ta chờ lúc cây cối đâm lộc nảy mầm, muôn vật trở lại cuộc sống bình thường, chỉ sợ vì một cớ gì bí mật, không phồn thịnh và sản xuất như xưa nữa. Họ tin rằng nếu không kiêng kị thì Thần Đất không phù hộ loài người…Tục tiễn ông Táo, tục không quét nhà, tục xông đất thoát thai từ sự tin tưởng đó…

Bộ đề Đọc hiểu Thương nhớ mười hai hay nhất

(2)  Cứ tin như thế, người ta thấy đời đẹp hơn, đáng yêu hơn. Vừa lúc đó, ở ruộng khoai lại nở những bông hoa tím, ở vườn cải lại có những búp vàng, mưa xanh gió tím ôn hòa, người dân vui sướng đến tận độ, sáng lên mắt biếc, hồng xuống làn môi cũng là lẽ đương nhiên, không có chi đáng lạ.

(Trích “tết, Hỡi cô mặc cái yếm xanh”. “Thương nhớ mười hai” – Vũ Bằng, Nxh Văn học)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Em hãy xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.

Câu 2. Trong đoạn (1), tác giả vận dụng thao tác lập luận gì?

Câu 3. Em hãy nêu những nội dung chính của văn bản trên.

Câu 4. Từ văn bản trên, em hãy viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ của mình về một phong tục đẹp ngày Tết nguyên Đán của dân tộc ta.

Trả lời câu hỏi đọc hiểu

Câu 1. 

Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là: Nghị luận.

Câu 2. 

Trong đoạn (1), tác giả vận dụng thao tác lập luận phân tích.

Câu 3. 

Những nội dung chính của văn bản trên là: Giải thích tên gọi và ý nghĩa của Tết Nguyên Đán

Câu 4. 

Tết nguyên Đán của dân tộc ta là một truyền thống đẹp mà năm nào cũng diễn ra, là ngày lễ mà ai cũng mong chờ. Trong những ngày này, có rất nhiều hoạt động được diễn ra, trong đó, phong tục gói và luộc bánh chưng là hoạt động mà em thích nhất. Cứ đến ngày 28 Tết là nhà em sẽ gói bánh chưng. Tuy vui nhưng đây là hoạt động vất vả nhất trong dịp Tết bởi tính phức tạp của nó. Trước ngày gói bánh 2-3 hôm, em cùng bà sẽ đi chợ để mua lá, chọn những lá to, dài và đẹp nhất và mua thêm cả lạt về chẻ để gói bánh. Sau đó mang lá về rửa sạch và phơi khô. Rửa lá phải rửa thật kĩ và sạch nếu không bánh sẽ bị thiu và hỏng, do đó, cả gia đình đã được huy động ra để rửa lá. Khung cảnh khi đó rất vui, người nói người cười rộn cả góc sân. Đến ngày gói bánh, bà và mẹ phải dậy từ sớm để nấu đỗ cho chín và tước lá để chuẩn bị gói. Hai người dậy sớm là thế nhưng vẫn phải đến 9 giờ sáng mới xong mọi thứ để gói bánh. Bố và cậu em sẽ là người gói còn mọi người trong nhà sẽ buộc lạt. Những chiếc bánh vuông vắn đã ra đời sau hơn gần 1 ngày gói và luộc bánh. Em thích nhất không khí lúc cả gia đình sum vầy quay nồi bánh, cùng nướng khoai và trò chuyện, rất ấm áp và tràn đầy tình yêu thương. Mỗi dịp tết đến xuân về, em đều rất mong chờ và háo hức vì em rất thích Tết.


02. Đọc hiểu đoạn trích Nhớ quá, bất cứ cái gì của Hà Nội cũng nhớ

Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi: 

Nhớ quá, bất cứ cái gì của Hà Nội cũng nhớ, bất cứ cái gì của Bắc Việt cũng nhớ, nhớ từ cánh đồng lúa con gái mơn mởn nhớ đi, nhớ từ tiếng hát của người mẹ ru con buổi trưa hè mà nhớ lại; nhớ hoa sấu rụng đầu đường Hàng Trống, nhớ quả bàng ở Hải Hậu rụng xuống bờ sông đào, nhớ sen Linh Đường thơm ngào ngạt cả bầu trời mà nhớ lên, nhớ nhãn Hưng Yên, vải Vụ Bản, cá anh vũ Việt Trì, na Láng, buởi Vạn Phước, cam Bổ Hạ, đào Sa Pa mà nhớ xuống. 

(Vũ Bằng- Thương nhớ mười hai) 

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích? 

Câu 2. Chi rõ biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích? 

Câu 3. Nêu nội dung chính của đoạn trích?

Trả lời câu hỏi đọc hiểu

Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích: Biểu cảm

Câu 2.  Biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích là: Liệt kê, điệp từ

Câu 3. Nội dung chính của đoạn trích: Những dòng cảm xúc tản mạn của nhà văn khi xa quê nhớ về Hà Nội.


01. Đọc hiểu đoạn trích Tự nhiên như thế ai cũng chuộng mùa xuân

Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng Giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.

Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.

Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội – là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng...

Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó – có lẽ là sự sống!

Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi làm cho người ta muốn phát điên lên như thế ấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh.

Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.

Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng “sống” lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa.

Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan.

Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.

Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ra ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.

Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều treo ở đầu bàn thờ ông vải đã hạ xuống từ hôm “hoá vàng” và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.

Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai, NXB Văn học, Hà Nội, 1993

Lựa chọn đáp án đúng:

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại gì?

A. Tản văn          

B. Tùy bút 

C. Kí                    

D. Truyện kí

Câu 2. Bên cạnh yếu tố trữ tình (biểu cảm), văn bản trên có sử dụng thêm phương thức biểu đạt nào khác?  

A. Tự sự và miêu tả

B. Miêu tả và nghị luận  

C. Miêu tả và thuyết minh 

D. Tự sự và thuyết minh

Câu 3. Nội dung chính của đoạn văn trên là gì?

A. Bày tỏ cảm xúc yêu mến với mùa xuân của Hà Nội, mùa xuân của Bắc Việt

B. Thuật lại kỉ niệm khó quên về tết Hà Nội

C. Bày tỏ nỗi nhớ Hà Nội

D. Miêu tả không khí mùa xuân Hà Nội

Câu 4. Biện pháp tu từ được nhà văn sử dụng trong câu sau là gì?

Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng “sống” lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa.

A. So sánh và nhân hóa

B. So sánh và điệp từ 

C. So sánh và ẩn dụ  

D. So sánh và liệt kê 

Câu 5. Biện pháp lặp cấu trúc được sử dụng trong đoạn sau có tác dụng gì? 

Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng Giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.

A. Khẳng định vẻ đẹp của mùa xuân

B. Khẳng định mùa xuân là mùa của yêu thương và tình yêu

C. Khẳng định ai cũng chuộng mùa xuân, những sự việc hiển nhiên không bao giờ dừng lại cũng như việc không bao giờ có người hết yêu mùa xuân

D. Khẳng định tình cảm của nhà văn với mùa xuân đất trời

Câu 6. Đọc văn bản và chỉ ra khoảng thời gian mà tác giả cảm thấy “yêu mùa xuân nhất”  

A. Đầu xuân

B. Tết nguyên Đán

C. Sau rằm tháng giêng

D. Cuối mùa xuân

Câu 7. Cảm xúc chủ đạo của văn bản trên là:  

A. Niềm hoài niệm trước những vẻ đẹp truyền thống xưa cũ  

B. Tình yêu và nỗi nhớ với tết Hà Nội 

C. Tình yêu và nỗi nhớ với Hà Nội mùa xuân 

D. Tình yêu và nỗi nhớ với những điều bình dị nhất của mùa xuân của Bắc Việt 

Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:

Câu 8. Lựa chọn một biện pháp tu từ trong văn bản trên và phân tích  

- Điệp cấu trúc: Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng Giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân. (Ai – cấm/đừng – động từ chỉ cảm xúc yêu, nhớ)

- So sánh: Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi làm cho người ta muốn phát điên lên như thế ấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh. (Những xúc cảm mạnh mẽ trong tâm hồn khi đón nhận mùa xuân)  

Câu 9. Chỉ ra những đặc điểm của tản văn xuất hiện trong văn bản

Đặc điểm tản văn trong văn bản:

- Về yếu tố trữ tình: Cảm xúc của nhà văn về mùa xuân Hà Nội và Bắc Việt, bày tỏ niềm yêu thương, nhớ nhung về những điều bình dị nhất. (Cảm xúc yêu, mến được nhắc lại nhiều lần trong văn bản)

- Đan xen yếu tố miêu tả và thuyết minh: Miêu tả những đặc điểm của mùa xuân, thuyết minh thêm về những món ăn, những nét văn hóa đẹp của mùa xuân Bắc Việt (Các đoạn văn miêu tả về không khí, về các món ăn ngon sau rằm tháng giêng, các nghi lễ khác của mùa xuân Bắc Việt)

Lưu ý: Mỗi luận điểm HS đưa thêm các dẫn chứng thuyết phục.

----------------------------------

Trên đây Toploigiai đã mang tới cho các bạn những kiến thức bổ ích qua bài Đọc hiểu Thương nhớ mười hai. Hi vọng những kiến thức trên sẽ giúp các bạn đạt được kết quả cao trong học tập. Mời các bạn đến với câu hỏi tiếp theo.

icon-date
Xuất bản : 18/12/2021 - Cập nhật : 19/09/2024

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads