logo

Đọc hiểu Chú bé rắc rối của Nguyễn Nhật Ánh (2 đề)

icon_facebook

Hướng dẫn trả lời 2 đề Đọc hiểu Chú bé rắc rối của Nguyễn Nhật Ánh trắc nghiệm, tự luận chi tiết, chính xác giúp bạn ôn luyện đề thi Ngữ văn Đọc hiểu đạt kết quả cao.

Đọc ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi:

CHÚ BÉ RẮC RỐI

(Tóm lược phần đầu truyện: Câu chuyện xoay quanh hai cậu bé là An và Nghi. An là một cậu học trò có thành tích học kém và lười học. Do phong trào đôi bạn cùng tiến, có Nga chủ nhiệm giao nhiệm vụ nên Nghi bất đắc dĩ đã phải kèm cho An học. Từ đó dần dần hai người trở nên thân thiết. Những buổi chiều học kèm thì Nghi lại bị An dụ đi đá bóng, đi công viên, đi coi chiếu bóng. Tất nhiên có đứa học trò nào mà chẳng mê chơi, mê cả trò nghịch ngợm, khám phá).

Kể từ hôm đó, tôi và An tự nhiên chơi thân với nhau mặc dù không đứa nào nhắc đến chuyện giúp đỡ nhau học tập. Trong khi các cặp khác lúc nào cũng túm tụm lại ở góc lớp hay ở các gốc cây trong sân trường để cùng giải bài tập hay truy bài lẫn phau, thì hai đứa tôi cư kè nhau đi đá bóng, tâng cầu hoặc ngồi đấu láo trong căng-tin.

(.....)

Theo mưu kể của tụi tôi, hôm nào có các tiết học "dễ chịu" như môn địa của cô Nga, môn sử của cô Hồng Lăng, môn sinh vật của thầy Lưu chẳng hạn, thì thằng An cố gò mình học bài cho thiệt thuộc. Tới lớp, khi kiểm tra bài cũ, đợi thầy cô hỏi "em nào thuộc bài ?" thì An xung phong giơ tay liền.

Nó đã làm như vậy hai ba lần. Lần nào cũng thành công rực rỡ. Vì đã chuẩn bị trước, nó trả bài ro ro, nhuyễn như cháo. Hành động anh hùng của An khiến cả lớp trố mắt. Các thầy cô cũng ngạc nhiên tột bực.... Thằng Vương, nhỏ Tuyết Vân và thằng Nhuận nhìn An ánh mắt đầy thiện cảm. 

(.... Thấy cô và các bạn đều bất ngờ và xuýt xoa khen ngợi. Còn đối với những môn thực hành, Nghi sẽ cho An cóp-pi bài của mình...) 

Đối với các học sinh lười, cóp pi đã trở thành một nghề. Và vì là một nghề, kỹ thuật sao chép đã được nâng lên đến mức điêu luyện. Chỉ cần thằng bạn hớ hênh trong một tích tắc, đứa ngồi bên cạnh đã thu thập đầy đủ những con số và dữ kiện cần thiết cho bài làm của mình, không sai một mảy may.

Huống hồ gì ở đây, hai đứa tôi lại đồng lõa với nhau. Mỗi lần làm bài tập, An cũng giả bộ hí hoáy tính tính toán toàn để che mắt thiên hạ. Đợi đến khi cả lớp chú tâm làm bài, không ai để ý xung quanh, tôi sẽ tự nhấc tay lên cho nó "chụp hình" bài làm của tôi. Mà cái thẳng này, làm bài thi dốt mà liếc bài làm của người khác thì nó lại tỏ ra thông mình, nhanh nhạy quá cỡ. Đảo mặt qua một cái là nó ghi lại trùng phóc, thật là tài! Chúng tôi cứ "cùng tiến" với nhau như vậy một thời gian, chẳng có ai phát hiện.

Mãi đến khi xảy ra chuyện sau đây thì mọi sự mới đổ bể.

(....)

 Hôm nay, đó là "vụ án" tôi và An.

Tuyết Vân lên tiếng trước:

- Trước đây, cô Nga đã phân công bạn Nghi kèm cặp, giúp đỡ cho bạn An trong học tập. Nhưng trong thời gian qua, bạn Nghi đã không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hai bạn thường xuyên bỏ học, rủ nhau đi chơi. Đã vậy, đến lớp bạn Nghi còn cố tình cho bạn An cóp pi để đánh lừa mọi người. Theo tôi, đó là một hành động cần phê phán.

Tiếp theo là cái giọng éo éo của thằng Nhuận:

- Sự thiếu trách nhiệm trong việc giúp đỡ bạn của Nghki đã được đưa ra phân đội đóng góp một lần rồi nhưng rõ ràng bạn Nghi không hề sửa chữa.

Tới phiên thẳng Vương "kết án" tôi:

- Nếu sự gian lận không bị phát hiện trong giờ toán vừa rồi thì chẳng hiểu bạn Nghi sẽ "qua mặt" chúng ta đến bao giờ!

Tôi ngồi nghe, cứng họng không nói được một câu. Thắng An ngồi cạnh tôi cũng im thin thít. Nhưng "hình phạt" chưa phải đã hết. Sau đó, đến lượt một số đứa trong lớp có ý kiến. Chẳng có ý kiến nào bênh vực cho hai đứa tôi (...).

Tóm hược phần cuối truyện: Nghi và An đã nhận ra những lỗi sai của mình. Đặc biệt là An đứng ra nhận hết mọi lỗi lầm về bản thân mình. Cậu thậm chí còn tự hưá rằng "từ nay về sau em sẽ không rủ bạn Nghi bỏ học nữa, em sẽ cố gắng học tập đàng hoàng a!". Sau lần ấy, giữa An và Nghi không đơn thuần là tình bạn gượng ép bởi danh hiệu "đôi bạn cũng tiến" nữa mà đã trở thành một đội bạn đúng nghĩa.

(Nguyễn Nhật Ánh, NXB Trẻ, 2018)


Đọc hiểu Chú bé rắc rối của Nguyễn Nhật Ánh (Trắc nghiệm) - Đề 1

Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là

A. biểu cảm.

B. miêu tả.

C. nghị luận.

D. tự sự.

Câu 2. Ngôi kể trong đoạn trích là

A. ngôi thứ ba.

B. ngôi thứ nhất

C. kết hợp ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba.

D. ngôi thứ nhất số nhiều

Câu 3. Tác giả đặt Nghi và An vào tình huống như thế nào?

A. Nghi được phân công kèm cặp, giúp đỡ An học tập.

B. Nghi và An đi đá bóng, tâng cầu hoặc ngồi đấu láo trong căng-tin.

C. Nghi và An thường xuyên bỏ học, rủ nhau đi chơi.

D. Nghi và An tự nhiên chơi thân với nhau.

Câu 4. Câu chuyện trong đoạn trích là lời kể của ai?

A. An

B. Người giấu mặt.

C. Nghi.

D. Nhuận.

Câu 5. Cụm từ "không ai để ý xung quanh" trong câu văn: Đợi đến khi cả lớp chủ tâm làm bài, không ai để ý xung quanh, tôi sẽ sự nhấc tay lên cho nó "chụp hình" bài làm của tôi là thành phần biệt lập nào?

A. Thành phần tình thái.

B. Thành phần cảm thán.

C. Thành phần chêm xen.

D. Thành phần gọi - đáp.

Câu 6. Câu văn "Chẳng  có ý kiến nào bênh vực cho hai đứa tôi" thuộc kiểu câu nào?

A. Câu khẳng định.

B. Câu phủ định.

C. Câu kể.

D. Câu khiến.

Câu 7. Dòng nào nêu nhận xét không phù hợp với những nét đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm?

A. Giọng văn mang màu sắc trữ tình, biểu cảm.

B. Miêu tả sinh động diễn biến tâm trạng, lời nói của nhân vật.

C. Sử dụng thành công ngôi kể.

D. Xây dựng tình huống đặc sắc.

Câu 8. Câu nào nói đúng nhất hành động và thái độ của các bạn trong lớp khi biết rõ hành vi sai trái của An và Nghi?

A. Bị ám ảnh và lo sợ trước hành vi của An và Nghi

B. Bênh vực, che giấu cho việc làm của An và Nghi.

C. Ngưỡng mộ tình bạn giữa An và Nghi

D. Phẫn nộ, lên án hành vi của An và Nghi

Đáp án

Câu 1. D -> Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là tự sự.

Câu 2. B -> Ngôi kể trong đoạn trích là thứ nhất - xưng tôi.

Câu 3. A -> Tác giả đặt Nghi và An vào tình huống Nghi được phân công kèm cặp, giúp đỡ An học tập.

Câu 4. C -> Câu chuyện trong đoạn trích là lời kể của Nghi.

Câu 5. A -> Cụm từ "không ai để ý xung quanh" trong câu văn là thành phần biệt lập tình thái.

Câu 6. A -> Câu văn "Chẳng  có ý kiến nào bênh vực cho hai đứa tôi" thuộc kiểu câu khẳng định.

Câu 7. A -> Giọng văn mang màu sắc trữ tình, biểu cảm nhận xét không phù hợp với những nét đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm.

Câu 8. D -> Hành động và thái độ của các bạn trong lớp khi biết rõ hành vi sai trái của An và Nghi:  Phẫn nộ, lên án hành vi của An và Nghi.

Đọc hiểu Chú bé rắc rối của Nguyễn Nhật Ánh

Đọc hiểu Chú bé rắc rối của Nguyễn Nhật Ánh (Tự luận) - Đề 2

Câu 1. Chủ đề của câu chuyện?

Câu 2. Sau khi thân với nhau thì Nghi với An thường làm gì?

Câu 3. Em có nhận xét gì về hành vi của Nghi và An trọng câu chuyện trên.

Câu 4. Theo em, tác giả muốn gửi gắm thông điệp nào qua của chuyện "Chú bé rắc rối"?

Đáp án

Câu 1. 

- Chủ đề của câu chuyện là về tình bạn giữa An và Nghi.

Câu 2. 

- Sau khi thân với nhau thì Nghi với An thường đi đá bóng, đi công viên, tâng cầu, ngồi đấu láo trong căng-tin. An sẽ học thuộc các môn của các thầy cô dễ để lên trả bài, qua mặt thầy cô và các bạn, khi kiểm tra thì Nghi sẽ lén lút cho An chép bài. 

Câu 3. 

- Hành vi của Nghi và An trong câu chuyện trên không đúng, hai bạn phải cùng nhau đi lên trong học tập bằng cách giúp đỡ nhau, trao đổi bài học, chứ không phải ham chơi rủ rê nhau đi đây đi đó, làm những hành động dối trá để qua mặt thầy cô cùng các bạn trong lớp và Nghi cũng đã không hoàn thành nhiệm vụ kèm An, không có chính kiến dễ bị lôi kéo, bao che, còn cho bạn chép bài mình.

Câu 4. 

- Theo em tác giả muốn gửi gắm thông điệp rằng chúng phải giúp đỡ nhau trong học tập, cùng nhau học bài, trao đổi bài, trung thực chứ không thể dễ dàng bị thú vui cuốn hút, bỏ bê trách nhiệm bài vở và tiếp tay cho hình vi gian lận, dối trá của bạn.

icon-date
Xuất bản : 28/04/2024 - Cập nhật : 28/04/2024

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads