logo

Dàn ý phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán

Tham khảo dàn ý phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán trích trong Truyện Kiều, qua đó nắm được những ý chính và cách triển khai các luận điểm nhằm hoàn thành bài viết một cách hoàn chỉnh nhất. 

Dàn ý phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán | 900 bài Văn mẫu 9 hay nhất


Dàn ý phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán

a) Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm

+ Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc có học vấn uyên bác, đặc biệt là tài làm thơ bằng chữ Nôm.

+ Truyện Kiều là áng văn chương bất hủ thể hiện rõ nhất tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du.

- Giới thiệu chung về đoạn trích: Thúy Kiều báo ân báo oán miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác.

b) Thân bài

* Khái quát về đoạn trích

- Vị trí: Nằm ở cuối phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc"

- Nội dung chính:

+ Miêu tả cảnh Kiều trả ân nghĩa những người đã cưu mang, giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn

+ Kiều trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác, hãm hại nàng trong bước đường lưu lạc.

* Luận điểm 1: Thúy Kiều báo ân Thúc Sinh

- Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: “Cho gươm mời đến Thúc lang” -> Đúng với phẩm chất nhân hậu vốn có, Thúy Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước.

+ Trước cảnh uy nghiêm “gươm lớn giáo dài”, chàng Thúc hoảng sợ đến mức “Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run”, mất cả thần sắc, bước đi không vững.

-> Hình ảnh tội nghiệp phù hợp với tính cách của Thúc Sinh : tốt bụng, đa tình nhưng nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng cảm để bảo vệ người yêu.

- Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:

Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non,

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?...”

+ Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục, Kiều đã có những tháng ngày tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh. Nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”, nàng không bao giờ quên.

+ Kiều ân cần hỏi han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ “người cũ” mang sắc thái thân mật, gần gũi, biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng.

- Khi nói với Thúc Sinh, trong ngôn ngữ của Kiều xuất hiện nhiều từ Hán Việt: “nghĩa”, ”tòng”, ”phụ”, ”cố nhân”… kết hợp với điển cố “Sâm Thương”. Lời lẽ của Kiều khi nói với Thúc Sinh là lời lẽ của một “phu nhân” với những khái niệm đạo đức phong kiến như chữ “nghĩa”, chữ “tòng” và “những phong cách biểu hiện ước lệ, công thức “Sâm Thương”, “nghĩa trọng nghìn non” (Đặng Thanh Lê).

-> Cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Kiều.

- Vì muốn thoát khỏi cảnh: “Sống làm vợ khắp người ta” nên Kiều đã nhận lời làm vợ lẽ Thúc Sinh.

+ Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tôi đòi khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư.

+ Nàng cho rằng nỗi đau đớn của mình không phải do Thúc Sinh gây ra.

+ Thúy Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Nàng không oán trách mà đem “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” để đền đáp ơn nghĩa của Thúc Sinh và vẫn khiêm tốn bày tỏ: “Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”.

-> Thúy Kiều là người trọng nghĩa.

- Trong khi trò chuyện với Thúc Sinh, Thúy Kiều đã đả động tới Hoạn Thư:

+ Vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho nàng vẫn còn rỉ máu, làm cho nàng không chỉ đau đớn về thể xác mà còn đau đớn gấp bội về tinh thần:

Vợ chàng quỉ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.

-> Kiều nhắc đến Hoạn Thư, cách nói nôm na như kiểu nói của người bình dân. Những thành ngữ “kẻ cắp bà già gặp nhau”, “kiến bò miệng chén” và câu nói dứt khoát “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa” hứa hẹn một cuộc báo oán theo quan điểm của nhân dân: cái ác phải bị trừng phạt, “ác giả ác báo”.

- Nói về ân nghĩa của Thúc Sinh, cách nói của Kiều rất trang trọng.

=> Thúy Kiều là một người nhân hậu, nghĩa tình “Ơn ai một chút chẳng quên”.

* Luận điểm 2: Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư

- Thái độ, lời nói của Thúy Kiều:

+ Kiều và Hoạn Thư gặp nhau lần này trong vị thế đã thay đổi: Kiều là người đứng ở vị thế của người xét xử, Hoạn Thư ở vị thế của kẻ bị xét xử.

+ Kiều vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm Hoa Nô cho nhà Hoạn Thư.

+ Vừa thấy Hoạn Thư, “nàng đã chào thưa”, vẫn gọi Hoạn Thư là “tiểu thư”

=> Cả hành động và lời nói của Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai, chì chiết. Cách xưng hô này còn là một đòn quất mạnh vào mặt ả đàn bà họ Hoạn có máu ghen ghê gớm.

+ Không chỉ mỉa mai, trong lời nói của Kiều còn có cả giọng đay nghiến : câu thơ như dằn ra từng tiếng, từ ngữ được lặp lại nhấn mạnh ("dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt, càng oan trái…)

-> Cách nói hoàn toàn phù hợp với nhân vật Hoạn Thư - một nhân vật ghê gớm và khôn ngoan, giảo hoạt:

Bề ngoài thơn thớt nói cười,

Bề trong nham hiểm giết người không dao.

=> Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của Kiều cho ta thấy nàng quyết tâm trừng trị Hoạn Thư. Điều đó là hợp lí vì Hoạn Thư là người đã làm cho Kiều đau khổ tủi nhục, biến Kiều từ người vợ lẽ thành gia nô trong nhà.

- Thái độ, lời lẽ của Hoạn Thư:

+ Trước những lời nói và thái độ của Kiều, Hoạn Thư cũng “hồn lạc, phách xiêu”

+ Bản chất khôn ngoan, lọc lõi nên Hoạn Thư đã nhanh chóng trấn tĩnh để “liệu điều kêu ca”.

+ Hoạn Thư “kêu ca” thực chất là lí lẽ để tự gỡ tội cho mình:

Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

-> Với lí lẽ này, sự đối lập giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư đã bị xóa bỏ.

=> Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung “chút phận đàn bà”. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của giới nữ: “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Từ “tội nhân”, Hoạn Thư đã lập luận để mình trở thành “nạn nhân” của chế độ đa thê.

+ Hoạn Thư kể lại “công” của mình đối với Kiều:

Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

-> Hai câu thơ nhắc lại việc Hoạn Thư cho Thúy Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm, và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Từ tội nhân thành nạn nhân rồi thành “ân nhân”, con người này thật khôn ngoan, giảo hoạt.

+ Cuối cùng, Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình, chỉ còn biết trông cậy vào tấm lòng khoan dung độ lượng rộng lớn như trời biển của Kiều.

-> Hoạn Thư đã đánh vào bản chất của Kiều:

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.

=> Lời tự bào chữa của Hoạn Thư theo ba bước chứng tỏ Hoạn Thư đúng là người “sâu sắc nước đời", khôn ngoan đến mức “quỷ quái tinh ma”.

+ Lời lẽ của Hoạn Thư thật có lí có tình, Kiều phải buộc miệng khen:

Khen cho: Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.

+ Khi bắt đầu cuộc báo oán, Kiều bảo mọi người ngồi lại để “xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù”, nghĩa là Kiều kiên quyết trừng phạt. Bây giờ, trước lí lẽ của Hoạn Thư, Kiều băn khoăn khó xử, không biết nên trừng phạt hay tha thứ:

Tha ra, thì cũng may đời,

Làm ra, thì cũng ra người nhỏ nhen.

+ Dân gian có câu: “Đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Hoạn Thư đã biết lỗi, Kiều cũng độ lượng thứ tha:

Đã lòng tri quá thì nên,

Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.

=> Hành động ấy bộc lộ tấm lòng vị tha nhân hậu tuyệt vời của Kiều.

* Đặc sắc nghệ thuật:

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại 

- Từ ngữ mang tính nôm na, bình dân

- Sử dụng nhiều thành ngữ dân gian

- Có sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và miêu tả.

c) Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung đoạn trích

- Nêu cảm nhận của em về đoạn trích.


Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán - Bài mẫu

Dàn ý phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán | 900 bài Văn mẫu 9 hay nhất (ảnh 2)

      Trải qua hết nạn nọ đến nạn kia, Kiều đã nếm đủ mọi điều cay đắng. Có lúc tưởng chừng nàng buông xuôi trước số phận: Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. Trong khi Kiều chới với, tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều gặp Từ Hải, một bước ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của cô gái tài sắc họ Vương. Người anh hùng đội trời đạp đất chẳng những cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh nhơ nhớp mà còn đưa nàng từ thân phận con ong cái kiến bước lên địa vị một phu nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị của một quan tòa.

      Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng nhân nghĩa vị tha của Kiều và ước mơ công lí của nhân dân: ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.

      Đoạn thơ chia làm hai phần. Mười hai câu đầu là cảnh Thúy Kiều báo ân. Những câu thơ còn lại là cảnh Thúy Kiều báo oán.

      Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của Nguyễn Du rất đa dạng. Có khi ông dùng bút pháp ước lệ để miêu tả ngoại hình (đoạn Chị em Thúy Kiều); có khi lại dùng ngôn ngữ độc thoại, hoặc tả cảnh ngụ tình để miêu tả tâm trạng (đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích). Trong đoạn Thúy Kiểu báo ân báo oán, tính cách nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại. Bằng ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã khắc họa tính cách Thúy Kiều và Hoạn Thư thật tài tình.

      Đúng với bẳn chất nhân hậu vốn có, Thúy Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước rồi mới báo oán sau. Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: Cho gươm mời đến Thúc Lang. Trước cảnh uy nghiêm gươm lớn giáo dài, chàng Thúc hoảng sợ đến mức Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run, mất cả thần sắc, bước đi không vững. Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách của Thúc Sinh, một con người tốt bụng, đa tình nhưng nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng cảm để bảo vệ người yêu.

      Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:

Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non,

Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?…”

      Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Kiều đã có những tháng ngày tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh. Nàng gọi đó là nghĩa nặng nghìn non, nàng không bao giờ quên. Kiều ân cần hỏi han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ người cũ mang sắc thái thân mật, gần gũi, biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng.

      Khi nói với Thúc Sinh Kiều dùng ngôn ngữ trau chuốt và sử dụng cả những điển cố, điển tích trong văn chương. Cách nói ấy phù hợp với thư sinh họ Thúc và diễn tả được thái độ trân trọng của Kiều đối với chàng.

      Vì muốn thoát khỏi cảnh : Sống làm vợ khắp người ta nên Kiều đã nhận lời làm lẽ Thúc Sinh. Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tôi đòi khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư. Nàng cho rằng nỗi đau đớn của mình không phải do Thúc Sinh gây ra. Thúy Kiều cũng thâu hiểu hoàn cảnh éo le và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng nhưng không đủ sức báo vệ nàng. Nàng không oán trách mà đem Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân để đền đáp ơn nghĩa của Thúc Sinh và vẫn khiêm tốn bày tỏ: Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là. Điều đó khẳng định Thúy Kiều là người trọng nghĩa.

      Trong khi trò chuyện với Thúc Sinh, Thúy Kiều đã đã động tới Hoạn Thư, bởi vết thương lòng mà hoạn Thư gây ra cho nàng vần còn rỉ máu làm cho nàng không những chỉ đau đớn về thể xác mà còn đau đớn gấp bội về tinh thần.

      Cuộc đối đáp giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư ở cảnh báo oán là một màn kịch ngắn nhưng có đầy đủ nhân vật, lời đối thoại và kịch tính:

Thoắt trông nàng đã chào thưa:

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan

Dễ dàng là thói hồng nhan

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.

      Với Hoạn Thư, Kiều dùng cách nói nôm na, bình dị nhưng chứa đựng sự hả hê khó giấu. Những thành ngữ quen thuộc như kẻ cắp bà già gặp nhau, kiến bò miệng chén.., rất hợp với sự thay bậc đổi ngôi giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư. Hành động trừng phạt cái ác của Thúy Kiều theo đúng quán điểm công lí của nhân dân nên nó phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.

      Mọi hành động, lời nói của Thúy Kiều đều biếu thị thái độ mỉa mai, chì chiết đối với Hoạn Thư. vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư, vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm Hoa Nô cho nhà họ Hoạn nhưng chính điều đổ đã khiến Hoạn Thư giật mình sợ hãi nhớ tới những ngày đày đọa Kiều, gieo cho Kiều bao nhiêu tai họa. Cách xưng hô này còn là một đòn quất mạnh vào mặt ả đàn bà họ Hoạn có máu ghen ghê gớm.

      Sự mỉa mai, đay nghiến của Kiều thế hiện khá rõ trong nhịp điệu thơ như dằn ra từng tiếng, trong những từ ngừ được lặp đi lặp lại với mục đích nhân mạnh: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều… Phải nói như thế mới. xứng với Hoạn Thư, con người xảo trá và tàn độc: Bể ngoài thơn thớt nói cười, Bề trong nham hiểm giết người không dao.

      Giọng điệu ấy cho thấy Thúy Kiều quyết trừng trị Hoạn Thư cho hả giận: Kiến bò miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.

      Lúc đầu, Hoạn Thư cũng hồn lạc phách xiêu, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi, ngay trong hoàn cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn đủ bình tĩnh để liệu điều kêu ca. Những điều Hoạn Thư kêu ca thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình.

      Trước hết, Hoạn Thư đưa ra tâm lí chung của phụ nữ: Rằng: “Tôi chút phận đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Với lí lẽ này, sự đối lập giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư đã bị xóa bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người cùng chung chút phận đàn bà. Sau đổ, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép kinh ở Quan Âm Các: Nghĩ cho khi gác viết kinh và dẫu biết mà không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn: Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Ý Hoạn Thư muôn nói rằng nếu tôi có tội thì chẳng qua cũng xuất phát từ tâm lí của giới nữ: Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai. Thế là từ một tội nhân, Hoạn Thư đã ranh mãnh hóa giải tất cả để trở thành nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê.

      Cao tay hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình: Trót lòng gây việc chông gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng! Đòn hiểm này của tiểu thư họ Hoạn đã đánh trúng vào chỗ mạnh mà cũng là chỗ yếu của Kiều: lòng nhân hậu và khoan dung hiếm có.

      Trước những lời lẽ của Hoạn Thư, Kiều phải thừa nhận rằng ả Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời. Hoạn Thư đẩy Kiều tới chỗ khó xử: Tha ra thì cũng may đời, Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen. Cho nên dù đã nghiêm khắc răn đe Hoạn Thư nhưng rồi Kiều lại tha bổng: Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã dập đầu xin tha thì Kiều cũng cư xử theo quan điểm của dân gian là Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại.

      Qua những lí lê để gỡ tội của Hoạn Thư, chúng ta thấy ả là loại người sâu sắc nước đời và quỷ quái tinh ma. Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự bào chữa của ả mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều. Đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán một lần nữa đã chứng minh tấm lòng vị tha, nhân hậu đáng quý của người con gái tài sắc họ Vương và cũng là của tác giả Truyện Kiều.

      Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thúy Kiều đã trở thành vị quan tòa thực hiện công lí. Đoạn thơ phản ánh khát vọng và ước mơ công lí chính nghĩa sẽ chiến thắng của nhân dân thời đại Nguyễn Du.

---/---

Từ dàn ý phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oánTop loigiai đã hướng dẫn trên đây, các em hãy vận dụng kiến thức đã học, kết hợp với cách hành văn của mình để làm thành một bài viết hoàn chỉnh nhé. Ngoài ra, chúng tôi thường xuyên cập nhật những bài văn mẫu lớp 10 hay nhất phục vụ việc học văn của các em. Chúc các em luôn học vui và học tốt!

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 05/02/2021