logo

Cảm nhận đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán

Cảm nhận đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán (Truyện Kiều) của Nguyễn Du, tổng hợp đầy đủ những bài văn cảm nhận hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!

Cảm nhận đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán| 900 bài Văn mẫu 9 hay nhất


Cảm nhận đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán - Bài mẫu 1

     1. Sau ngày được Từ Hải chuộc khỏi lầu xanh về làm áp trại phu nhân, nhân lúc thong dong, vui vầy Kiều kể lại cho Từ Hải nghe những ngày hàn vi của mình:

Khi Vô Tích khi Lâm Tri,

Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương.

Tấm thân này đã nhẹ nhàng,

Chút còn ân oán đôi đường chưa xong.

     Từ Hải đã giúp Kiều giải tỏa nỗi ưu tư bằng cách sai quân tìm đón những người đã ban ân, tìm bắt những ai gây oán về trại để Kiều phân xử. Giữa không khí uy nghiêm đầy binh tướng, cờ xí đứng canh hầu:

Trương hùm mơ giữa trung quân,

Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi.

     2. Đời Kiều cho đi ngày làm áp trại phu nhân, ân oán cũng nhiều. Ở đây, Kiều chí báo ân, trả oán Thúc Sinh và Hoạn Thư. Trưóc hết, trước mặt Từ Hải, Kiều truyền lệnh cho mời Thúc Sinh. Qua ngòi bút so sánh của Nguyễn Du, lúc này Thúc Sinh "Mặt như chàm đổ mình dường dễ run". Đối diện vớ Kiều, Thúc Sinh đã từng. Nhưng đối diện với người đàn ông đường bệ, hách dịch đang ngồi bên Kiều giữa khung cảnh đầy binh hùng tướng dũng này thì chưa. Thêm vào đó, Thúc Sinh cũng đã từng “càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông ” khiến đời Kiều càng dài thêm những ngày truân chuyên. Chuyện gì sẽ đến với Thúc Sinh, Sự trả thù! Có lẽ vì thế mà chàng lo sự đến mặt xanh như chàm và run như chi dẽ. Còn Kiều, khi nhìn thấy người xưa thì:

Nàng rằng: “Nghĩa nặng tình non.

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không ?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai mà dám phụ lòng cố nhân ? ”

     Những câu hỏi tu từ, nhất là hai cụm từ “nghĩa nặng tình non - há dám phụ lòng cố nhân" do Kiểu thốt ra. Nói được những câu đầy nghĩa tình ấy là vì, trong quá khứ, Kiều đã cảm nhận được tình yêu trung thực của Thúc Sinh. Chàng đã chuộc nàng ra khỏi bàn tay sắt bọc nhung của mụ Tú Bà cùng với tay lừa đảo Mã Giám Sinh. Có lẽ Kiều vẫn còn nhớ nét mặt đau khổ của chàng trong những ngày tháng ở nhà Hoạn Thư và Quan Âm Các. Sống giữa dòng đời truân chuyên trôi nổi, lẽ nào Kiều không mong ước được “vẹn chữ tòng”, được làm vự Thúc Sinh, dù là vự bé. Thế nhưng mong ước đó không đạt được là lỗi “tại ai” chứ chẳng phải tại chàng. Bởi “nghĩa nặng tình non’' như thế nên Kiều đã quyết định tặng chàng:

Gấm trăm cuốn bạc ngàn cân,

Tạ lòng để xứng báo ân gọi là.

     Với Thúc Sinh thì Kiều đối xử như thế, nhưng nàng cũng nói thẳng với chàng rằng:

Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.

     Bốn câu thơ mang ý nghĩa nhận xét: “vợ chàng” là Hoạn Thư có tính tình “quỷ quái tinh ma". Ý nghĩa thông báo: “Mưu sâu cũng trá...”, và câu đáp trả: “Kiến bò miệng chén chưa lâu" của Kiều, số là khi biết Thúc Sinh yêu Kiều, Hoạn Thư đã tự nhủ:

Lo gì chuyện ấy mà lo,

Kiến trong miệng chén thì bò đi đâu.

     Rồi sau đó, Hoạn Thư đã sử dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn để hành hạ Kiều, nhât là buộc Kiều đánh đàn trong bữa tiệc đoàn viên của vợ chồng Hoạn Thư - Thúc Sinh khiến “người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm”. Người mà ngày trước phải sống với số phận “kiến trong miệng chén” thì nay đã trở thành người đầy quyền uy, nói năng lịch sự, khen chê vừa rõ ràng vừa chính xác vừa có tính nhắc nhở. Phong cách ấy của Kiều khiến cho:

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khấu dầu dưới trướng liệu điều kêu ca.

     Chí một cử chỉ “khấu dầu dưới trướng" thôi cũng đã biểu hiện Hoạn Thư là người nhạy bén, xử trí nhanh, biết nhận lồi. Sau đó mời "kêu ca”:

Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình".

     Hoạn Thư quả là người khôn khéo, xoáy vào tâm lí của đàn bà khi biết chồng san sẻ tình yêu với người khác. Chính vì tâm lí ghen tuông thường tình ấy mà Hoạn Thư đã “trót lòng gãy chuyện chông gai". Tuy nhận tội nhưng Hoạn Thư vẫn bộc lộ tình cảm của mình với Kiều:

Lòng riêng riêng những kính yêu,

Và mong Kiều:

Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khói cửa dứt tình chẳng theo.

Là người cùng giói chắc Kiều cũng thông cảm với tâm lí “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai" và cũng nhận ra Hoạn Thư có hành hạ, “làm cho đau dân ê chề”, làm cho dứt tình với Thúc Sinh chứ không hại đời Kiều. Vả lại bản chất Kiều là người bao dung, độ lượng, bởi vậy, trước khi truyền lệnh tha, Kiều đã nói với Hoạn Thư:

Khen cho: “Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời.

Tha ra thì cũng may đời

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.

     3. Đi sâu tìm hiểu các nhân vật trong Truyện Kiều, càng đọc sâu càng thấy tài năng lỗi lạc của Nguyễn Du. Tài ấy là sự sành tâm lí. Và còn hơn thế là dùng ngôn ngữ để diễn tả tâm lí một cách chặt chẽ và mượt mà. Đoạn thơ có ba nhân vật. Cả ba đều được mô tả một cách nhất quán về tâm lí của mỗi nhân vật từ các diễn biến đầu truyện cho tới cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán: Thúc Sinh hiền lành đến nhu nhược, Hoạn Thư hoạt bát, khôn lanh, còn Thúy Kiều thì bao dung, độ lượng.


Cảm nhận đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán - Bài mẫu 2

     Đã bước sang thế kỉ XXI nhưng Nguyễn Du và Truyện Kiều vẫn có sức hấp dẫn lớn đối với hàng triệu độc giả Việt Nam và thế giới. Cho đến nay Nguyễn Du vẫn là đại thi hào duy nhất của dân tộc, Thúy Kiều vẫn là kiệt tác số một của văn học Việt Nam. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Du viết : “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, câu thơ ấy đã bộc lộ rất rõ quan điểm đề cao chữ tâm cũng như trái tim giàu lòng yêu thương của tác giả. Tấm lòng ấy phần nào được bộc lộ qua cách xử sự hết sức nhân văn trong đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán”.

     Dân gian ta có câu “Ơn đền oán trả”, quan điểm ấy đã thể hiện một thái độ rạch ròi, dứt khoát trong cách sống của người Việt. Có lẽ cách sống ấy đã có từ ngàn đời nay, được thử thách qua thời gian . Cho đến nay nó vẫn còn nguyên vẹn giá trị, chỉ có điều ơn trả thế nào, oán báo ra sao cho có văn hóa thì thật khó. Trong đoạn trích này thông qua việc báo ân oán của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gián tiếp bộc lộ văn hóa ứng xử của mình, chính ở đây tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Trước hết là báo ân:

Cho gươm mời đến Thúc Lang,

Mặt như chàm đổ minh dường dẽ run.

Nàng rằng : Nghĩa nặng nghìn non,

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tong,

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?

Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,

Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.

Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp, bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưa sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.

     Thực ra đoan Thúy Kiều báo ân báo oán không chỉ gồm báo ân Thúc SInh và báo oán Hoạn Thư mà còn báo ân với Giác Duyên; báo oán với :

Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà.

Bên là Ưng Khuyển, bên là Sở Khanh.

Tú Bà với Mã Giám Sinh…

     Tuy vậy đoạn trích đã lược bớt để làm nổi bật cuộc đối thoại giữa Kiều với Thúc Sinh và Hoạn Thư mà vẫn đảm bảo nội dung ơn đền, oán trả. Trước tiên là báo ân, âu đó cũng là việc làm hợp lẽ đời. Thúc Sinh được mời đến trong cảnh oai nghiêm nơi Kiều xử án “Cho gươm mời đến Thúc Lang”. Hình ảnh “gươm” nói rõ quyền uy mà Kiều đang có trong tay nhờ gặp được Từ Hải – người anh hùng “đội trời đạp đất”. Kiều giờ đây thật vững vàng, từng trải để nhận ra người ơn, kẻ oán, hoàn toàn khác xa với cô Kiều với thân phận “con ong, cái kiến” trước kia. Chứng kiến sự uy nghiêm đó Thúc Sinh tỏ ra sợ hãi đến mức mất cả thần sắc “mặt như chàm đỏ” và người run như con chim dẽ. Hình ảnh tội nghiệp ấy hoàn toàn phù hợp với tính cách có phần nhu nhược của Thúc Sinh. Và đó cũng là chi tiết có ảnh hưởng đến cách báo oán Hoạn Thư ở đoạn sau. Sau hai câu đầu nói về Thúc Sinh, mười câu thơ còn lại là đoạn đối thoại của Kiều với Thúc Sinh. Qua lời nói của Kiều có thể thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ của Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn, nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”. Đó là một cách so sánh rất cao, nghĩa nặng như hàng ngàn trái núi. Để xưng hô với Thúc Sinh có lúc Kiều gọi chàng là “người cũ” mang sắc thái thân mật, gần gũi; lúc lại dùng “cố nhân” mang sắc thái trang trọng, kính trọng. Có lẽ đó cũng là hai sắc thái tình cảm Thúy Kiều dành cho Thúc SInh. Với Kiều việc Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục, cho nàng những ngày tháng êm ấm trong cuộc sống gia đình là cái ơn vô cùng lớn mà cô không thể nào trả hết “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” cũng chưa dễ xứng với ơn nghĩa đó. Cao hơn cả vật chất chính là tấm lòng “nghĩa nặng nghìn non” mà cô dành cho chàng Thúc. Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng những từ Hán Việt: nghĩa , chữ tong (theo), cố nhân, tạ lòng…điển cố Sâm Thương. Cách nói trạng trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc, đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Thúy Kiều đối với Thúc Sinh.

Cảm nhận đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán| 900 bài Văn mẫu 9 hay nhất (ảnh 2)

     Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư. Bởi vì nàng hiểu nỗi đau khổ của nàng khi gắn bó với Thúc Sinh không phải do chàng gây ra mà thủ phạm chính là Hoạn Thư “Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”. Vẫn đang nói với Thúc Sinh nhưng khi nói về Hoạn Thư ngôn ngữ của Kiều lại hết sức nôm na, bình dị. Nàng dùng những thành ngữ quen thuộc “kẻ cắp bà già gặp nhau” hay “kiến bò miệng chén”. Cách nói ấy vừa tạo ngữ điệu đanh hơn vừa theo quan điểm “ác giả ác báo” của nhân dân nên mươn luôn lời ăn tiếng nói của nhân dân để diễn đạt. Từ cách nói này để cô chuyển sang Hoạn Thư – báo oán. Đoạn này gồm những lời đối thoại trực tiếp giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư. Trong hai đoạn lời nói của Kiều lộ rõ thái độ mỉa mai với Hoạn Thư. Nàng vẫn cố tình giữ thái độ và cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô trong nhà họ Hoạn:

Thoắt trong nàng đã chào thưa:

Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây

     Thái độ “chào thưa” hay gọi Hoạn Thư là “tiểu thư” khi giữa hai người đã có sự thay đổi ngôi thứ, nhất là vào lúc này Kiều đang ngồi ở ghế xử án và Hoạn Thư là kẻ có tội thì điều đó quả là một đòn mỉa mai quất mạnh vào danh gia họ Hoạn. Nhưng không dừng lại ở đó sang những câu nói sau giọng của Kiều đã dần thay đổi, giọng đay nghiến, phẫn uất càng ngày càng tăng tiến. Người ta như cảm nhận được giọng nói rành rọt từng tiếng đang dằn ra, nhấn mạnh

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.

     Cách nói này quả là xứng với lối đối đáp “vỏ quýt dày có móng tay nhọn” nếu không cái mụ nham hiểm giết người không dao ấy lại lấn lướt như trước kia Kiều đã từng chịu trận. Đến đây ta thấy thái độ quyết trừng trị Hoạn Thư của Kiều cho bõ những ngày tháng Kiều bị mụ ta hành hạ.

Vậy liệu Hoạn Thư đối phó thế nào trước thái độ ấy

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca

     Quả thật là khôn ngoan đến giảo hoạt. Nhận thấy điều bất lợi đang đến gần mụ ta đã cố gắng trấn tĩnh để “liệu điều kêu ca”.

Rằng : Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

     Một câu nói thật khôn khéo đến mức tinh vi. Thứ nhất mụ nói về tâm lý chung của phụ nữ : ghen tuông là chuyện thường tình, cách nói này vừa để kêu gọi lòng trắc ẩn của người đàn bà trong Kiều vừa có tính phổ quát. Thứ hai ngôn ngữ sắc như dao “chút phận” – hạ thấp mình thành nhỏ bé, “thường tình” – đó là chuyện bình thường chứ không đáng tội: “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Qua miệng lưỡi biện bạch của mụ, tội nhân đã trở thành nạn nhân của chế độ đa thê. Mà đã là nạn nhân ai lại nỡ trừng trị. Hoạn Thư quả là một luật sư tự bào chữa cực giỏi. sau đó như lẽ tất yếu để “lấy lòng” Thúy Kiều, Hoạn Thư đã “kể công” với Kiều : cho nàng ra gác Quan Âm viết kinh, không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Cuối cùng Hoạn Thư nhận tội và trông chờ tấm lòng bao dung, độ lượng của Kiều:

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.

     Quả thực đó là một bài đối thoại được sắp xếp chặt chẽ, logic, hợp lý. Qua lời đối thoại ấy Kiều phải thừa nhận đó là con người: “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”. chính những lời nói đó khiến cho Kiều bị thuyết phục và phải phân vân:

Tha ra thì cũng mang đời,

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.

     Hoạn Thư đã biện bạch đến thế nếu Kiều quyết trả thù thì lại trở thành người nhỏ nhen, ích kỷ. Và thái độ của Kiều đã thay đổi so với đoạn trước. Hoạn Thư đã biết lỗi “Đánh người chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại”.

     Như vậy qua đoạn trích này ta thấy Hoạn Thư quả là một người “quỷ quái, tinh ma”. Tất nhiên việc Hoạn Thư được tha bổng không chỉ vì có khả năng “tự bào chữa” mà chủ yếu là do tấm lòng vị tha độ lượng của Kiều. Qua đó tấm lòng nhân ái bao dung của người con gái ấy một lần nữa lại sáng lên.

     Đoạn thơ là sự phản ánh ước mơ, khát vọng công lý chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du : người bị áp bức, đau khổ được ngồi ghế quan tòa cầm cán cân công lý để thực hiện triết lý sống của dân gian “ơn đền oán trả”.

---/---

Trên đây là một số bài văn mẫu Cảm nhận đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán trích Truyện Kiều của Nguyễn Du mà Top lời giải đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 05/02/2021