logo

Bố cục bài Hội lồng tồng SGK Ngữ văn 7 trang 152 (KNTT)

Giới thiệu Bố cục bài Hội lồng tồng SGK Ngữ văn 7 trang 152 (KNTT) chi tiết nhất về nội dung, câu hỏi trong SBT, biện pháp nghệ thuật, phương thức biểu đạt, thể loại của bài Hội lồng tồng.

Bài Hội lồng tồng SGK Ngữ văn 7 được chia theo bố cục như sau

Bố cục

Có thể chia văn bản thành 2 phần:

- Phần 1 (từ đầu đến “một cách tài tình”): Giới thiệu về hội lồng tồng.

- Phần 2 (còn lại): Các hoạt động và ý nghĩa của hội lồng tồng.


1. Giới thiệu về tác giả 

Tác giả văn bản Hội lồng tồng

Trần Quốc Vượng – Lê Văn Hảo – Dương Tất Từ


2. Tìm hiểu khái quát về tác phẩm 

Thể loại: Hội lồng tồng thuộc thể loại văn thuyết minh

Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: Mùa xuân là mùa khởi đầu cho một năm, mùa sinh sôi nảy nở của vạn vật, cỏ cây. Giữa tiết trời ấm áp ấy, người dân rủ nhau đi hội, hành hương về cội nguồn, vui chơi và cầu mong cho mùa màng tốt tươi, cuộc sống hạnh phúc. Mùa xuân, với những phong tục lâu đời gắn liền trong nhân dân ta rất bền chặt. Mùa xuân chính là mùa hội tụ nhiều phong tục và lễ hội nhất. Quyển sách “Mùa xuân và phong tục Việt Nam” do Trần Quốc Vượng, Lê Văn Hảo và Dương Tất Từ biên soạn sẽ đưa người đọc khám phá những khía cạnh khác nhau của phong tục và lễ hội vào mùa xuân ở nước ta. Sách do Nhà xuất bản Văn hóa thông tin Phát hành năm 2006.

Phương thức biểu đạt: Văn bản Hội lồng tồng có phương thức biểu đạt là thuyết minh.

Tóm tắt văn bản Hội lồng tồng: Văn bản cung cấp những thông tin cơ bản đến chi tiết về hội lồng tồng. Từ những chi tiết về thời gian, địa điểm tổ chức, cho đến phần lễ hội, cúng tế, vui chơi văn nghệ đều được thông tin đầy đủ đến người đọc. Những hoạt động đó thể hiện những phẩm chất và khả năng của con người: chăm chỉ, cần cù lao động, nhanh nhẹn, khỏe khoắn. Đặc biệt nó còn thể hiện được tình yêu thiên nhiên, yêu lao động, yêu mùa xuân và sự duyên dáng trong những câu hát. Khi tổ chức hội lồng tồng, người dân gửi gắm mong ước về mùa màng tươi tốt, sự may mắn tốt lành, ca ngợi cái đẹp của thiên nhiên, của mùa xuân, của tình yêu, của cuộc sống lao động.

Bố cục bài Hội lồng tồng SGK Ngữ văn 7 trang 152 (KNTT)

3. Nội dung chính và bố cục tác phẩm

Nội dung chính 

Văn bản tái hiện lại hình ảnh của lễ hội Lồng tồng, qua đó thể hiện tình yêu của tác giả với những nét đẹp đậm đà bản sắc dân tộc. Bài văn thuyết minh về hội lồng tồng ở vùng Việt Bắc, hội được mở từ sau tết Nguyên Đán đến tết Thanh minh.


4. Giá trị nội dung và nghệ thuật 

Giá trị nội dung 

Bài văn thuyết minh về hội lồng tồng ở vùng Việt Bắc, hội được mở từ sau tết Nguyên Đán đến tết Thanh minh.

Giá trị nghệ thuật 

- Miêu tả chi tiết hội lồng tồng

- Kiến thức xã hội sâu sắc thể hiện qua ngôn ngữ thuyết minh của tác giả


5. Câu hỏi trong SBT

Câu 1: Đọc lại văn bản Những khuôn cửa dấu yêu trong SGK và trả lời các câu hỏi

1. Tại sao đối với tác giả, những ô cửa sổ lại có sức hút kì lạ?

2. Tìm những câu văn trong văn bản cho thấy cửa sổ không phải là vật vô tri. Hãy ngắm nhìn một ô cửa sổ nào đó và chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ của em về nó.

3. Từ hình ảnh trung tâm là cửa sổ, tác giả đã cho thấy không gian sinh hoạt của người dân bản địa. Hãy chỉ ra một vài chi tiết thể hiện nét đẹp, sự độc đáo trong văn hoá Ý được miêu tả trong không gian đó. Em thích nhất chi tiết nào? Vì sao?

4. Văn bản có nhiều đoạn văn giàu tính tạo hình. Hãy chỉ ra một đoạn văn như A thế. Nếu có thể, em hãy dựa vào các chi tiết trong đoạn văn để vẽ thành một bức tranh và giới thiệu về bức tranh đó.

5. Chỉ ra biện pháp tu từ được dùng trong những câu văn dưới đây và nêu tác dụng:

- Khuôn cửa nhỏ cũ kĩ, nhìn có vẻ mệt mỏi nhưng vững chãi đã ở đó biết bao năm tháng, phía bên dưới đường là một vòi nước đã tồn tại ở đó ít nhất năm thế kỉ.

- Có những cửa sổ đã thành nơi hẹn hò của chim bồ câu.

4. Văn bản có nhiều đoạn văn giàu tính tạo hình. Hãy chỉ ra một đoạn văn như A thế. Nếu có thể, em hãy dựa vào các chi tiết trong đoạn văn để vẽ thành một bức tranh và giới thiệu về bức tranh đó.

5. Chỉ ra biện pháp tu từ được dùng trong những câu văn dưới đây và nêu tác dụng:

- Khuôn cửa nhỏ cũ kĩ, nhìn có vẻ mệt mỏi nhưng vững chãi đã ở đó biết bao năm tháng, phía bên dưới đường là một vòi nước đã tồn tại ở đó ít nhất năm thế kỉ.

- Có những cửa sổ đã thành nơi hẹn hò của chim bồ câu.

Lời giải

1. Vì:  Những của sổ giống đối mắt của các căn nhà nhìn ra cuộc sống, và các ô của sổ được trang trí rất đẹp.

2. Kính trên Bộ-rờ-gô Pi-ô (Borgo Pio), một con phố đi bộ nhỏ chỉ cách toà thánh a Giêng, mơ về va-ti-căng (Vatican) vài trăm mét. Nó rất ít khi đóng, kể cả khi chủ căn hộ không có nhà, và phủ quanh năm cạnh ô cửa nhỏ hình chữ nhật luôn là một biển lá thường xuân. Mùa xuân và hè, lá xanh mơn mởn lấp kín bức tường rêu phong, chỉ chừa lại một chút không gian cho những biển thông báo có lẽ đã nằm ở nơi này vài thập kỉ, cạnh đó dựng một chiếc xe đạp của ai đó đã lâu không đi, hoen rỉ và rầu rĩ. Mùa thu, lá cây chuyển màu. Bức tường trở thành một bức tranh màu vàng úa dưới nắng thu. Đầu đông, lá cây chuyển sang đỏ và héo dần. Dưới những cơn mưa và cái lạnh của Rô-ma (Roma), trông như chúng đang chết. Chỉ còn cái cửa sổ và ngọn đèn lắp kế bên như một người tri kỉ qua năm tháng là vẫn thế, không đổi, im lặng.

- Căn phòng của em cũng có một chiếc của sổ, bên ngoài nhìn ra thấy được những cành nhãn đang đơm hoa, cùng vơi đó là những chumd hoa giấy đỏ rực cả bầu trời xanh. Thực sự emmraast thích khung cảnh ấy và cảm giấy nó như mổ người bạn thực sự của mình, cho mình thấy được một vẻ đẹp thu nhỏ.

3. Chi tiết thể hiện nét đẹp, sự độc đáo trong văn hoá Ý: Khuôn cửa nhỏ cũ kĩ, nhìn có vẻ mệt mỏi nhưng vững chãi đã ở đó biết bao năm tháng, phía bên dưới đường là một vòi nước đã tồn tại ở đó ít nhất năm thế kỉ. Biết bao nhiêu người Rô-ma đã đi qua đây, bao nhiêu Giáo hoàng, Hồng y và những thế hệ người khác đã đặt chân lên nơi đây, dừng chân, khum tay hứng nước và uống ở cái vòi chảy suốt ngày đêm, cho thứ nước mát lạnh mà ông bạn già của tôi – chính là người chủ của căn hộ có chiếc cửa sổ chằng chịt cây thường xuân ấy – đã khẳng định rằng đấy là “nước thánh”. 

Em cũng rất thích chi tiết này, bởi nó rất độc đáo. 

4. - Đoạn văn tạo hình: (Trastevere) với những căn nhà liêu xiêu, tường vàng vọt, lở loét, đây tranh vẽ, hè vương vãi những lá, những tờ rơi quảng cáo, những chiếc xe đạp hay ve-xpa nhợt nhạt vì thời gian dựa bên tường, nhưng lúc nào cũng ngự trị ở đó một cửa sổ ngạo nghễ với thời gian.  

- (vẽ hs tự làm)

5. - Biện pháp tu từ: nhân hoá 

- Tác dụng: Làm câu văn thêm gợi hình, gợi cảm, gần gũi với con người.

Câu 2: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi

Ở đó có những căn nhà không bao giờ khép cửa. Những căn nhà không cả vách che đằng trước, vì chẳng ai thèm tham lam của ai cái gì. Không cần giới thiệu gì cả, bản chất của xứ sở chúng tôi là đây, những ngôi nhà nầy”. Mưa Nam hay mưa Chướng, nhà chỉ treo một cái rèm bằng mấy cái bao bố may ghép lại hoặc bằng lá chằm đóp3). Không cái gì cho người ta cái cảm giác thái bình, nó ấm như thế, không có gì cho ta sự gần gũi, thân thuộc như thế. Những ngôi nhà rất rộng lòng, mở trong tầm nhìn của ta một chiếc giường, một cái bàn thờ gia tiên, cái bàn trà, một bức màn vải thêu hình hai con chim loan đậu trên cànhtrúc, thấy nhà nó hợp với con rạch nầy làm sao đâu, vì khi nước ròng rạch cũng cạn lòng, phơi đáy. Nó hợp với tính cách con người của vùng đất nầy làm sao đâu, vì người ở đây cũng sống khoảng khoát (3), cởi mở, rộng rãi, hào sảng.

Người ấp…(4) Mũi ít khi làm buồng để ngủ, buồng chỉ để cho con gái, cho những cặp vợ chồng son, người xứ biển thích ngủ đằng trước nhà, chỉ cần cái mùng), khỏ chiếu, áp cái lưng trần đỏ au xuống với sàn nhà bằng gỗ được bóng như gương đồng vậy là được một giấc ngủ ngon. Mà đúng là ngủ ở ngoài này thì thích không chịu được.

Nhà bao nhiêu gian thì bấy nhiêu gian đầy gió. Trong cái mùi biển tanh nồng mặn mòi của những giàn lưới phơi trên giá, trong cái mùi khói ngọt bùng nhùng toả ra từ mẻ un, dường như có nhà ăn cơm chiều trễ, nghe mùi béo ngậy của cá thòi lòi (8) kho với nước cốt dừa. Và đâu đó chắc có vài người chuẩn bị lai rai), rõ ràng là mùi thơm khô mực nướng trên lò than đang tàn.

[...] Gió vẫn như múa, như ca, như chạy, như nấp bên ngoài cái mùng vải thơm mùi nắng. Những chiếc tàu đánh cá ầm ì chạy qua, và tiếng biển, đúng là tiếng biển lướt trên những búp lá đẫm sương trong rừng đước, rì rào rất gần. Chỉ có tiếng biển mới mênh mông một nỗi nhớ bờ như thế.

(Nguyễn Ngọc Tư, Ngủ ở Mũi, in trong Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ và Thời báo Kinh tế Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 159 )

1. Những nét sinh hoạt nào của cư dân vùng đất Mũi Cà Mau được nói tới trong đoạn trích?

2. Những ngôi nhà vùng đất Mũi có gì đặc biệt? Tại sao tác giả lại nói bản chất của xứ sở chúng tôi là đây, những ngôi nhà nầy?

3. Ở trong một căn nhà đơn sơ, vì sao con người lại có cảm giác về fono ám? sự thái i bình,

4. Theo em, vì sao người xứ biển thích ngủ đằng trước nhà? Sở thích này thể hiện điều gì ở con người đất Mũi?

5. Cảnh sinh hoạt lúc chiều tối của cư dân đất Mũi gợi cho em những suy nghĩ gì?

6. Nêu những cụm từ thể hiện tính chất khẩu ngữ của đoạn trích.

7. Liệt kê những từ ngữ địa phương trong đoạn trích. Cho biết tác dụng của việc

sử dụng những từ ngữ địa phương đó.

8. Chỉ ra biện pháp tu từ được dùng trong các câu văn sau và nêu tác dụng:

a. Gió vẫn như múa, như ca, như chạy, như nấp bên ngoài cái mùng vải thơm mùi nắng.

b. Chỉ có tiếng biển mới mênh mông một nỗi nhớ bờ như thế.

Lời giải

1. Những nét sinh hoạt của dân cư Cà Mau được nói tới trong văn bản đó chính là: 

- Cách xây dựng nhà cửa, cách đối mặt với thiên thiên

- Và tính tình thật thà của người dân nơi đây.

2. Đặc điểm của những căn nhà ở Cà Mau:

- Các các căn nhà được xây dựng một cách thô sơ, và giản dị.,

- Các căn phòng thì dường như khôgn có buồng ngủ, buồng ngủ chỉ dành cho con gái và cặp vợ chồng son.

- Nhà có bấy nhiêu gian, thì gian nào cũng đầy gió. 

=> Vì nó hết sức thô sơ, và giản dị, không được chắc chắn.

3. Bởi vì: Những con người nơi đây đã sống quen thuộc với cảnh vật như thế rồi, cho nên họ cảm thấy thái bình, no ấm. Và phong tục tập quán đã để lại nên họ tiếp nhận.

4. Người xứ biển thích ngủ trước đằng trước nhà vì:  áp cái lưng trần đỏ au xuống với sàn nhà bằng gỗ được bóng như gương đồng vậy là được một giấc ngủ ngon. Mà đúng là ngủ ở ngoài nầy thì thích không chịu được.

=> Có lẽ là ngủ ngoài đây rất mát và thoải mái.

5. Cảnh sinh hoạt của của cư dân đất mũi gợi cho em cảm thấy độc đáo, hoà mình vào với thiên nhiên.

6. Khẩu ngữ: nầy làm sao đâu

7. - Từ ngữ địa phương: nầy, chằm đóp, con rạch, nước ròng, ấp,...

=> Tác dụng: Làm bài văn trở lên sinh động, gần gũi, và đậm chất địa phương của nơi này.

8. a. Nhân hoá => Làm câu văn trở lên sinh động, gợi hình, gợi cảm

b. Nhân hoá => Làm câu văn trở lên hấp dẫn. sinh động, gợi hình, đầy cảm xúc.

Câu 3: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi

Làng Vân bị vây bọc quanh bởi nhiều con sông; và tôi nghĩ rằng đấy là một thế đất cần thiết cho sự giữ bí quyết, bởi vì cho đến nay, chưa ai bắt chước được rượu làng Vân cả. Một đoàn những cụ già y phục dáng lễ hội đứng chờ chúng tôi, vẽ thành một hàng dài vui mắt ngay trên nền chiếu hoa trải thành hai hàng trên thềm nhà; trên đó bày đủ các thức ăn để nguội chừng đã lâu do chúng tôi đến trễ. Chúng tôi rủ nhau ngồi xuống chiếu trước những chai rượu Vân trong suốt. Một người nhà bưng ra những chiếc mâm đồng vàng ánh như còn mới, trên đó có chạm hoa văn nhỏ bằng đầu kim găm, lấm chấm phủ kín cả mặt đồng. Mỗi mâm có một cụ già bê từng món thức ăn đặt lên mâm đồng và hạ thấp ngọn măng sông2 xuống (bây giờ, tôi mới để ý căn nhà được thắp sáng bằng đèn măng sông). Bóng tối trở nên đậm đặc hơn, và tôi không biết chủ nhà đang bày ra trò vui nào đây. Cụ già quay lại lấy một chai rượu Vân chừng một lít đổ đầy mặt đồng và châm lửa, hoá ra đó là một cách hâm thức ăn. Phực một tiếng, ảnh lửa bốc thành ngọn đồng loạt trên những chiếc mâm đồng; ngọn lửa len lỏi qua những bát thức ăn vẽ thành những lượn sóng màu xanh biếc trên mặt thực khách.Đã lâu rồi nhưng tôi không thể nào quên bữa tiệc hôm ấy ở làng Vân, với những vết sáng xanh biếc đầy bí ẩn nhảy múa trên gương mặt của những thực khách ngồi chìm trong bóng tối; trông nó giống như một cuộc tiệc của một bộ lạc bán khai" nào đó trong ánh lửa rừng đêm thẳm của lịch sử nhân loại. [...] Và trong không gian đó, tôi nghe lan toả một giai điệu quan họ, và “người ở đừng về” đã nói với tôi một điều gì đó, giống như một điều nguồn cội thuộc văn hoá dân tộc.

(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Rượu làng Vân, in trong Miền gái đẹp, NXB Thuận Hoá, Thừa Thiên – Huế, 2001, tr. 28 – 30)

1. Nét sinh hoạt nào của cư dân làng Vân được nói tới trong đoạn trích?

2. Nêu những chi tiết miêu tả nét văn hoá độc đáo của làng Vân trong đoạn trích.

3. Khung cảnh bữa tiệc đón khách ở làng Vân được miêu tả như thế nào?

4. Việc các bậc cao niên trong làng tiếp khách thể hiện đặc điểm gì của người dân nơi đây?

5. Đọc đoạn trích, em cảm nhận được gì về thái độ ứng xử với văn hoá vùng

miền của tác giả?

6. Rượu làng Vân là loại rượu quê khá nổi tiếng. Có nhiều làng quê trên đất nước Việt Nam là những làng nghề chuyên sản xuất những sản phẩm truyền thống. Kể tên và chia sẻ nét văn hoá độc đáo của những làng nghề mà em biết.

7. Xác định các biện pháp tu từ được dùng trong câu văn dưới đây và nêu tác

dụng của những biện pháp tu từ đó:

Đã lâu rồi nhưng tôi không thể nào quên bữa tiệc hôm ấy ở làng Vân, với những vết sáng xanh biếc đầy bí ẩn nhảy múa trên gương mặt của những thực khách ngồi chìm trong bóng tối; trông nó giống như một cuộc tiệc của một bộ lạc bản khai nào đó trong ánh lửa rừng đêm thẳm của lịch sử nhân loại.

Lời giải

1. Nét sinh hoạt được nói đến trong bài: đó là những bữa tiệc ở làng Vân khôgn thể thiếu rượu. 

2. Những chi tiết miêu tả nét độc đáo của làng Vân:

- Một đoàn những cụ già y phục dáng lễ hội đứng chờ chúng tôi, vẽ thành một hàng dài vui mắt ngay trên nền chiếu hoa trải thành hai hàng trên thềm nhà; trên đó bày đủ các thức ăn để nguội chừng đã lâu do chúng tôi đến trễ. Chúng tôi rủ nhau ngồi xuống chiếu trước những chai rượu Vân trong suốt. 

- Một người nhà bưng ra những chiếc mâm đồng vàng ánh như còn mới, trên đó có chạm hoa văn nhỏ bằng đầu kim găm, lấm chấm phủ kín cả mặt đồng. Mỗi mâm có một cụ già bê từng món thức ăn đặt lên mâm đồng và hạ thấp ngọn măng sông2 xuống (bây giờ, tôi mới để ý căn nhà được thắp sáng bằng đèn măng sông). 

- Cụ già quay lại lấy một chai rượu Vân chừng một lít đổ đầy mặt đồng và châm lửa, hoá ra đó là một cách hâm thức ăn. 

3. Khung cảnh bữa tiệc đón khách ở làng Vân được miêu tả: 

- Đã lâu rồi nhưng tôi không thể nào quên bữa tiệc hôm ấy ở làng Vân, với những vết sáng xanh biếc đầy bí ẩn nhảy múa trên gương mặt của những thực khách ngồi chìm trong bóng tối; trông nó giống như một cuộc tiệc của một bộ lạc bán khai" nào đó trong ánh lửa rừng đêm thẳm của lịch sử nhân loại. [...] Và trong không gian đó, tôi nghe lan toả một giai điệu quan họ, và “người ở đừng về” đã nói với tôi một điều gì đó, giống như một điều nguồn cội thuộc văn hoá dân tộc.

4. Thể hiện sự tôn trọng, và mến khách

5. Em cảm thấy thái độ ứng xử với ăn hoá vùng miền của tác giả rất độc đáo và lạ.

6. Nói về đặc sản Long An không thể không nhắc đến rượu đế Gò Đen. Đây là loại rượu có hương vị độc đáo được nhiều người ưa chuộng. Sở dĩ loại rượu này được gắn với địa danh Gò Đen (gồm 3 xã Mỹ Yên, Long Hiệp và Phước Lợi của huyện Bến Lức, tỉnh Long An), bởi Gò Đen là vùng đất nổi tiếng với nhiều lò nấu rượu. Trong đó, rượu đế Gò Đen là loại rượu nổi tiếng, đã xuất hiện cách đây gần một trăm năm. Khác với rượu Bàu Đá của miền Trung và Làng Vân của miền Bắc là những làng rượu thì Gò Đen lại là một “vùng” rượu. Rượu đế Gò Đen có từ thời Pháp thuộc. Thời bấy giờ, thực dân Pháp không cho dân ta nấu rượu hòng độc quyền sản xuất rượu công xi (régie). Vì rượu régie nhạt và không hợp khẩu vị nên dân ta đã lén nấu rượu khác, có mùi vị dễ uống hơn. 

7. - Biện pháp tu từ: So sánh

- Tác dụng: làm câu văn hay, gợi hình, gợi cảm.

icon-date
Xuất bản : 07/10/2022 - Cập nhật : 07/10/2022