Bạn đã bao giờ tò mò về những dòng chữ khắc trên bia đá tại các đền, chùa hay di tích lịch sử chưa? Những dòng văn ấy không chỉ ghi lại sự kiện, con người mà còn chứa đựng cả tâm hồn và trí tuệ của người xưa. Vậy văn bia thực sự là gì ? Hãy cùng Toploigiai tìm hiểu nhé !
Văn bia được hiểu là bao gồm các thể loại như bia ký, bia văn, bia minh và mộ chí minh, được xem là một thể loại văn học lịch sử trung đại phổ biến tại các quốc gia Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản.
Văn bia là những bài văn được khắc trên bia đá tại các công trình như chùa chiền, đền miếu, lăng mộ, cầu, đình,... nhằm ghi nhận công lao của các danh nhân, anh hùng hoặc các sự kiện lịch sử quan trọng. Thông thường, phần văn xuôi ghi chép tiểu sử, lai lịch, trong khi phần minh sử dụng văn vần để ngợi ca và phẩm bình.
Ở Trung Quốc, một số tác phẩm nổi bật có thể kể đến "Thái Sơn khắc văn" của Tần Thủy Hoàng, "Phong Yên Nhiên sơn minh " của Ban Cố, hay "Liễu Tử Hậu mộ chí minh" của Hàn Dũ. Tại Việt Nam, hàng vạn văn bia đã được khắc dựng, nổi bật như "Văn bia núi Chí Linh" của Nguyễn Trãi và "Bài minh chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn" của Pháp Bảo.
Văn bia không chỉ là những dòng chữ khắc trên đá, mà còn là kho báu lưu giữ giá trị văn hóa, lịch sử và tâm hồn của một thời đại.
Văn bia là phương tiện ghi lại những sự kiện quan trọng trong lịch sử, văn hóa, chính trị hoặc tôn vinh công đức của các vị vua, những bậc hiền tài, và những người đạt thành tích xuất sắc trong các kỳ thi do triều đình tổ chức, như bia Tiến sĩ tại Văn Miếu.
Vào thế kỷ XI, tại chùa Linh Xứng, núi Ngưỡng Sơn (Thanh Hóa), một văn bia khắc lời Lý Thường Kiệt đã nhấn mạnh ý nghĩa của văn bia: "Xây dựng lâu ngày cõi báu đã xong, nếu không khắc bia để lại, thì con cháu mai sau không biết tìm đâu để noi theo dấu vết, nên phải dùng văn bia trình bày rõ ràng công việc đã làm, dù cho nhân vật có đổi dời tiếng lành vẫn truyền mãi."
Theo truyền thống Việt Nam, nội dung văn bia thường xoay quanh việc xây dựng (lựa chọn địa điểm, vị trí theo phong thủy), ca ngợi cảnh đẹp hoặc nhân vật được thờ tự. Chẳng hạn, bài thơ khắc trên bia chùa Quán Thánh năm 1904 đã miêu tả vẻ đẹp yên bình của nơi đây:
"Chuông chùa văng vẳng trên sườn núi
Trăng xế lung linh chiếu cửa hang
Trong tiếng cá bơi nghe pháp vũ
Am đồng cây nhọn gió mênh mang."
Văn bia thời Lý không chỉ dùng văn xuôi mà còn kết hợp văn vần ngắn gọn, hàm súc, mang giá trị văn học cao. Một số bia còn khắc chữ đại tự, ghi lại danh hiệu của vua khi ghé thăm các đền, chùa hoặc thắng cảnh, kèm theo những bài thơ do nhà vua sáng tác, để lưu giữ dấu tích lịch sử cho hậu thế.
Văn bia là một loại hình tác phẩm thành văn được khắc trên đá, mang ý nghĩa quan trọng với ảnh hưởng sâu rộng về mặt lịch sử. Chính vì vậy, văn bia thường được chú trọng không chỉ ở nội dung mà còn cả yếu tố mỹ thuật.
Đặc biệt, bia thời Lý thường có kích thước lớn, với một số bia cao tới 2,5m, rộng 1,7m và dày 0,29m, tạo nên vẻ uy nghiêm như một tượng đài. Kích thước đồ sộ này không chỉ để tôn lên nội dung văn bia mà còn thể hiện tinh thần độc lập tự chủ và bản sắc văn hóa riêng của nước Đại Việt, khẳng định vị thế trước tham vọng bá quyền của Đại Tống.
Phần trán bia và diềm bia được chạm khắc hoa văn tinh xảo, phù hợp với chủ đề, góp phần nâng cao giá trị nghệ thuật và tính trang trọng của văn bia. Những đường nét này không chỉ làm đẹp mà còn phản ánh tâm hồn và sự sáng tạo của người Đại Việt thời bấy giờ.
Lịch sử phát triển
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu thì “ đến đời Hán (TK III TCN – người viết chú thêm) thì “bia mới bắt đầu có tư cách của một thể loại văn học với tên gọi chính thức là “bi”.hay “văn bia là thể văn hình thành sớm nhất trong các thể văn xuôi chữ Hán của Việt Nam vào thời Lý. Hiện có Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi của Lý Thừa An, Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh và Sùng Nghiêm Diên Thánh từ bi minh của Pháp Bảo, Đại Việt quốc dương gia đệ tứ Sùng thiện Diên linh tháp bi của Nguyễn Công Bật”, …
Hai bài văn bia Thoại Sơn bi và Vĩnh tế bi được xác lập vào đời Minh Mạng và được viết bằng chữ Hán.
Sơ đồ về kết cấu của bài văn bia: