logo

Trào phúng là gì?

icon_facebook

Trào phúng là gì?

Trào phúng (tiếng Pháp : satire) là một loại đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước,… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng… những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội.


Đặc điểm của trào phúng 

Trào phúng theo nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác, song trong lĩnh vực văn học, trào phúng gắn liên với phạm trù mỹ học và cái hài với các cung bậc hài hước umua, châm biếm. Văn học trào phúng bao hàm một lĩnh vực rộng lớn với những cung bậc cái hài khác nhau từ những truyện cười, truyện tiếu lâm đến tiểu thuyết (như Số đỏ), từ các vở hài kịch cho đến những bài thơ trào phúng, châm biếm (như của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,…). Đó là một khái niệm bao trùm lĩnh vực văn học của tiếng cười. Do yêu cầu của thực tế đấu tranh xã hội mà từ trào phúng tách ra loại châm biếm , như một vũ khí sắc bén, nhưng không nên đồng nhất loại này với trào phúng.

Việc xếp trào phúng vào loại nào của văn học đã có một lịch sử lâu đời cùng với sự xuất hiện của nó. Từ thời cổ đại, lí luận văn học truyền thống coi trào phúng là một dạng của trữ tình (bộc lộ thái độ bên trong của con người trước thực tại). Đến thời Phục hưng, quan niệm này bị nghi ngờ khi đứng trước những tác phẩm có dung lượng hiện thực đồ sộ của Xéc-van-tex, Ra-bơ-le,… Đến thế kỷ XIX, Hê-ghen cho rằng trào phúng không mang tính sử thi và cũng không phù hợp với trữ tình. Theo L.I. Ti-mô-phê-ép, trào phúng là một loại đặc biệt của sáng tác văn học gần gũi với trữ tình, sử thi và kịch trong những trường hợp cụ thể.


Các nhà văn Việt Nam nổi bật trong văn học trào phúng

1. Nam Cao

Trào phúng là gì? - ảnh 1

Trong giai đoạn này tác giả Nam Cao tập trung chủ yếu viết về 2 hình tượng: Người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Người trí thức nghèo hiện lên trong trang sách qua bàn tay tài hoa của Nam Cao được khắc họa 1 cách chân thực và thảm thiết cuộc sống tăm tối, đày đọa bóp nghẹt con người, đưa con người trở thành nô lệ trong chính kịch bản bi kịch của cuộc đời mình. Họ những muốn vươn đến những điều thánh thiện và chủ nghĩa chân chính của 1 người trí thức thật sự nhưng cuộc sống hiện thực phi nhân đạo không cho họ khả năng được làm điều đó! Tuy thế ngòi bút của ông vẫn hướng đến những khát vọng, những mong mỏi sâu xa và mãnh liệt nhất để vươn đến lẽ sống lớn lao của đời người.

Với hình tượng người nông dân nghèo, Nam Cao thông qua ngòi bút sắc bén của mình đã vẽ nên 1 bức tranh xã hội Việt Nam những năm 30 - 45 nghèo đói, tàn tạ thảm thương và vô cùng khốc liệt. Khả năng đào sâu nội tâm nhân vật tuy bị đọa đày nhưng vẫn tha thiết vươn đến những gì trong sáng nhất đã giúp ông lên tiếng phê phán cái xã hội thối nát lúc bấy giờ. Quan niệm nghệ thuật mà người nghệ sỹ này hướng đến là "Nghệ thuật vị nhân sinh"; ông phê phán quan niệm "nghệ thuật vị nghệ thuật".

Có thể nói, Nam Cao là 1 trong những cây bút đi đầu về truyện ngắn trong làng văn học Việt Nam. Các tác phẩm tiêu biểu của ông thời kì này: truyện ngắn "Chí Phèo", "Lão Hạc", "Một bữa no", "Trẻ con không được ăn thịt chó"...

2. Ngô Tất Tố

Trào phúng là gì? - ảnh 2

Đây là 1 nhà văn đã chứng kiến khoảnh khắc giao thời của lịch sử đất nước từ chế độ phong kiến dần chuyển sang chế độ nô lệ tư bản.

Ngô Tất Tố được coi là nhà văn hàng đầu của trào lưu hiện thực phê phán trước 1945. "Tắt đèn" chínhlà kiệt tác văn học xuất sắc nhất của nhà văn này. Tác phẩm là bức tranh toàn diện, chân thực về xã hội đương thời tăm tối và bế tắc đã đẩy con người vào những cảnh ngộ vô cùng đau khổ của kiếp nhân sinh.

Nhân vật chị Dậu qua ngòi bút tài tình của nhà văn này đã hiện lên những những tâm tư thầm lắng sâu kín nhất đớn đau mà cũng thật thiêng liêng vì tình mẫu tử, tình nghĩa vợ chồng đã làm rung động bao trái tim độc giả. Thiên phóng sự "Việc làng" được coi là một trong những tác phẩm báo chí toàn diện và chi tiết nhất về bộ mặt nông thôn Việt Nam trước năm 1945.

Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông trong giai đoạn này là "Tắt đèn", tiểu thuyết "Liều chõng", hai thiên phóng sự "Tập án gia đình", "Việc làng".…

3. Nguyên Hồng

Trào phúng là gì? - ảnh 3

Nguyên Hồng là nhà văn tài năng sở hữu giọng văn nhẹ nhàng và truyền cảm như chính hơi thở cuộc sống. Tuy nhiên, trước biến động to lớn của thời cuộc, ông cũng như bất kì nhà văn chân chính nào khác cũng bắt đầu chuyển hướng ngòi bút sang bức tranh hiện thực khốc liệt thời bấy giờ.

Nhà văn Nguyên Hồng sáng tác tiểu thuyết "Bỉ vỏ" vào đầu năm 1937. Có thể nói đây là tiểu thuyết thành công nhất của ông đem đến vị thế cho nhà văn trên văn đàn. Thiên tiểu thuyết "Bỉ vỏ" là bức chân dung chân thực và đau đớn đến tận tâm cam về những thân phận con người bé nhỏ lênh đênh giữa dòng đời vô định nổi trôi.

Tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyên Hồng giai đoạn này ngoài "Bỉ vỏ" có thể kể đến các tiểu thuyết như "Cửa biển", "Ngày thơ ấu"...

4. Nguyễn Công Hoan

Trào phúng là gì? - ảnh 4

Nguyễn Công Hoan cũng là 1 trong những nhà văn hàng đầu của nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.

Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ.

Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,...) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Ông viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ.

Ngòi bút của ông vô cùng sắc xảo, mang tính đột phá và bất ngờ, dễ dàng bóc trần những giả dối mà hiện thực xã hội che đậy. Các tác phẩm thể hiện rõ nhất ngòi bút phê phán xuất sắc của ông lúc bấy giờ có thể kể đến như "Mất ví", "Quan huyện", "Đầu hào có ma", "Ngựa người người ngựa", tập truyện ngắn "Kép Tư bền" (1945). Từ tập truyện này ông bắt đầu nổi lên như 1 hiện tượng và được giới văn nhân trong nước đặc biệt chú ý đến.

icon-date
Xuất bản : 20/09/2021 - Cập nhật : 23/05/2024

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads