logo

Top 21 bài Thuyết minh về chiếc nón lá (ngắn gọn)

Tổng hợp các bài văn mẫu Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn hay nhất. Mời các bạn học sinh cùng các thầy cô giáo tham khảo nhé!


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 1

     Nón lá là một trong những biểu tượng đẹp mỗi khi nhắc đến Việt Nam. Nó gắn liền với các bà, các mẹ mỗi khi ra ngoài, gắn với những bộ áo dài thướt tha trong gió tạo nên những nét đẹp rất đỗi bình dị mà thân thương.

     Nón lá có hình chóp nhọn ở đỉnh, nó thường được đan bằng các loại lá khác nhau như lá cọ, rơm, tre,… nhưng chủ yếu làm bằng lá nón. Nón thường có dây đeo với đủ màu sắc làm bằng vải mềm hoặc nhung, lụa để giữ nón trên cổ khỏi rơi mỗi khi các bà, các mẹ đi làm đồng phải cúi mặt xuống đất. Có thể thấy, một chiếc nón được làm từ những nguyên liệu rất đơn giản và dễ tìm. 

       Nguyên liệu tuy dễ tìm nhưng cách làm ra được một chiếc nón lại rất tỉ mỉ và đòi hỏi sự khéo léo, công phu. Chiếc nón được hình thành từ bàn tay khéo léo của người làm. Vót những chiếc nan nón phải thật dẻo dai và mảng rồi uốn thành những vòng tròn to nhỏ có đường kính khác nhau tạo thành những vành nón. Sau đó, thợ làm nón phải lấy từng chiếc lá, làm phẳng rồi lấy kim khâu tầm hai chục chiếc lá lại với nhau rồi xếp đều trên khuôn nón. Sau khi hoàn thiện xong chiếc nón, người thợ sẽ  phết một lớp dầu bóng vừa để tăng độ bền, vừa làm cho chiếc nón trông mịn và láng hơn. Quai nón thường được buộc ở nan thứ 3 hoặc thứ 4.

        Ngày xưa, nón lá là vật dụng dùng để đội đầu, để che nắng che mưa. Ngày nay, chiếc nón lá vẫn giữ cho mình công dụng đó nhưng thường được làm một cách tinh xảo và bắt mắt hơn để trang trí hoặc trưng bày. 

       Có thể thấy rằng Việt Nam ta có rất nhiều những văn hóa đẹp và giản dị. Chúng ta nên gìn giữ và phát huy những văn hóa này để nó luôn trường tồn mãi.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 2

        Một trong những món quà mà người nước ngoài đến với Việt Nam nhất định phải mua về là nón lá. Không chỉ đánh dấu là vật kỉ niệm của Việt Nam mà còn được nhiều người mua bởi sự bắt mắt và tính thời trang thẩm mĩ cao.

        Không ai biết nón lá đã có từ bao giờ mà chỉ biết rằng nó đã xuất hiện từ rất lâu. Chiếc nón là thường được các bà và các mẹ dùng để che nắng che mưa. Tuy nhìn chiếc nón rất đơn giản nhưng để làm ra nó thì không đơn giản chút nào. 

        Nón lá được hình thành từ các khung tròn to nhỏ với đường kính khác nhau tạo thành hình chóp nhọn ở đỉnh. Các khung đó được uốn nắn từ những chiếc nan nón được vót nhỏ và dẻo dai. Sau khi hình thành khung, phần quan trọng nhất để quyết định nón có đẹp hay không là ở phần lá nón. Tùy vào kích cỡ nón mà ta chọn kích cỡ lá khác nhau. Lá sau khi phơi thì phải ép thẳng xuống. Sau khi ép thẳng thì xếp nhiều lớp lá lên trên vành nón, rồi dùng chỉ khâu lại. Sau cùng phủ một lớp dầu bóng lên. 

       Đã có rất nhiều bài thơ, bài hát nói về vẻ đẹp của chiếc nón. Dù bây giờ đời sống có hiện đại hơn, có nhiều loại mũ đẹp hơn nhưng ta vẫn có thể bắt gặp hình ảnh chiếc nón lá ở bất kì nơi đâu. Mong rằng hình ảnh về nét đẹp văn hóa này sẽ luôn được giữ gìn và phát huy

Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn

Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 3

Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu
Bàn tay xây ta, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng
Bài thơ đan nón

Nước Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên quanh nam nóng lắm, mưa nhiều. Cùng với tà áo dài thướt tha, tự bao giờ chiếc nón lá Việt Nam đã sinh ra và sống mãi theo bề dài của lịch sử văn hóa Việt Nam, và đi vào thơ ca, nhạc họa. Sau đây chúng ta hãy đi vào tìm hiểu thêm về chiếc nón lá đáng yêu này.

Không ai xác định được nón lá có từ bao giờ. Những hình ảnh của nón lá đã có trên hình trống đồng Ngọc Lũ và trên tháp đồng Đảo Thịnh từ khoảng 2500 đến 3000 năm trước. Nón lá là một loại nón phần lớn được làm bằng lá buông, lá dừa lá gội, lá cọ, lá hồ hay lá du quy diệp, cùng với tre trúc là nguyên vật liệu làm vành nón. Vật liệu đơn sơ bao nhiêu thì ngược lại, công phu làm nón lại tỉ mỉ bấy nhiêu.

Muốn làm một chiếc nón lá, đầu tiên phải có một cái khung làm nón. Khung làm nón này là một khối, hình chóp, làm bằng gỗ, hình dáng nó thỏ hay thanh do tùy vùng miền. Nón lá Huế có dáng thanh hơn nón lá Nam Bộ vì độ rộng nhiều và độ sâu của khung ít hơn.

Sau đó, phải đi lựa mua là loại vừa tầm, phơi trong nắng chiều cho hơi se lại. Sáng hôm sau, ủi lá sao cho lá phẳng, láng mà không cháy trên những dụng cụ riêng. Sau khi tỉa bớt những đầu thừa đuôi thẹo của lá, đến giai đoạn chuốt nan tre. Việc này có thể do nam hay nữ làm, nhưng phải chuốt đều, bằng tre còn tươi, uốn thành những vòng tròn bóng bẩy, dẻo dai, cột lại bằng dây cước rồi xếp vào khuôn gỗ theo thứ tự từ nhỏ nhất ở đinh nón và lớn dần ...đến vành thứ mười sáu là vành cuối cùng. Kế đến, xếp lá lên đều đặn rồi bắt đầu chằm nón bằng kim nhỏ và những sợi cước trong suốt, mảnh như sợi chỉ, chạy theo mười sáu vành ấy. Chiếc nón đẹp hay xấu, có giá trị cao hay không còn do mũi khâu nhỏ hay to. Mũi khâu càng tỉ mỉ, chiếc nón càng mịn và đẹp, được xếp vào loại đặt tên, dành cho những phụ nữ khuê các sang trọng sử dụng.

Dù nón lá có nhiều loại, nhưng công dụng chung của nón lá thật là đa dạng. Ngoài việc che mưa tránh nắng, người đi xa, khát nước có đôi khi ghé vào dòng sông hay chiếc ao đầu làng mà múc nước giải khát, rửa mặt.

Nó còn có mặt khi người phụ nữ làm đồng, đi chợ, bán buôn hay chơi hội. Kèm theo nón lá là chiếc quai lụa, làm tôn lên vẻ yêu kiều sang quý của người phụ nữ Việt.

Chiếc nón còn làm duyên cho người con gái, phù hợp với nét tính cách kín đáo, tế nhị Á Đông, dưới vành nón, ẩn hiện một đôi mắt, một nụ cười hay che lấp một tâm trạng khó bày tỏ... .đó chính là cái duyên của chiếc nón lá Việt Nam:

“Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón
Trời mùa thu mây che có nắng đâu?"

Nếu nói đến các loại hình nghệ thuật múa, nước ta còn có điệu múa nón, và bao hình ảnh nghệ thuật, hội họa cũng lấy nón lá làm đề.

Đó là cái duyên thầm kín của văn hóa Việt mà du khách nước ngoài chẳng quản đường xa, thường mua về châu Âu, châu Mỹ sau khi rời đất nước ta.

Dù bây giờ đời sống thị thành trên chiếc xe gắn máy cần kèm theo chiếc nón bảo hiểm, nhưng chúng ta hy vọng nón lá Việt Nam còn sống mãi với dân tộc Việt Nam. Một người Việt xa xứ, giảng dạy ở Đại học Washington đã có những suy nghĩ rất hay về nón lá: “Tôi đã đi khắp bốn phương đã thấy nhiều kiểu mũ, nón của nhiều nước và nhiều dân tộc, nhưng chưa thấy kiểu nón nào bình dị, đoan trang, yêu kiều và duyên dáng, đơn sơ và thực tiễn như chiếc nón lá Việt Nam".


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 4

“Anh gửi cho em chiếc nón bài thơ xứ Nghệ/ Mang hình bóng quê hương,/ Lợp vào đây trăm mến ngàn thương/ Nón bài thơ, em đội nón bài thơ đi đón ngày hội mới/ Nước non ta nay một giải vẹn tròn, như chiếc nón bài thơ”. Chiếc nón không chỉ là một vật dụng quen thuộc, hữu ích trong cuộc sống con người, mà từ lâu đời chiếc nón đã trở thành biểu tượng của đời sống, tâm hồn con người Việt. Chiếc nón thật quen thuộc đối với mỗi chúng ta, nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu về nguồn gốc, cấu tạo,… của chiếc nón.

   Chiếc nón ra đời cách đây đã hàng nghìn năm. Trên trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn người ta đã tìm thấy hình ảnh chiếc nón lá. Nón lá đã gắn với đời sống vật chất, tinh thần của ông cha ta.

   Nón lá được cấu tạo bằng tre và các loại lá như lá cọ, lá nón, lá hồ,… Nón của ta đa phần được cấu tạo là hình chóp nhọn, một số loại nón khác có thể được làm kiểu rộng bản, mặt bên trên để phẳng, và chúng thường có đường kính rộng hơn nón chóp. Nón thường được xếp trên một khung gồm các nan tre được vót nhẵn và uốn thành hình vòng cung, sao cho thật tròn và đẹp, sau đó chúng được cố định lại bằng các sợ chỉ chắc chắn, nếu không dùng chỉ có thể dùng các sợi tơ tằm hoặc sợi cước,… miễn là có thể tạo sự chắc chắn cho khung nón.

   Một chiếc nón nhìn rất đơn giản, nhưng để tạo được một chiếc nón đẹp, chất lượng cao lại đòi hỏi tay nghề và quá trình làm hết sức công phu, cần sự tỉ mỉ và chính xác của người thợ. Trước hết, công đoạn quan trọng nhất là tạo khung nón, một chiếc khung nón tròn chịa, chắc chắn là cở sở đầu tiên để làm nên một chiếc nón bền đẹp. Khung nón sử dụng các thanh tre được vuốt mỏng, dẻo dai với đường kính khác nhau, cái to nhất đường kính khoảng 40 – 50 cm, cứ như vậy nhỏ dần cho đến cái cuối cùng chỉ còn độ 2cm. Tất cả những vòng tròn này được xếp đều trên một chiếc khuôn hình chóp. Tiếp đó chúng ta cần chuẩn bị lá nón, lá nón cần được mang về phơi khô cho trắng, để tránh bị ẩm mốc cần xếp chúng vào các túi ni lông. Khi dùng lấy lá nón kéo cho phẳng rồi lấy kéo cắt chéo đầu trên của lá, tiếp đó dưới đôi bàn tay khéo léo của các thợ thủ công chúng được khâu lại với nhau từ 24-25 chiếc lá lại với nhau tạo hình chóp, rồi xếp đều lên khuôn nón. Nhưng nếu chỉ có một lượt lá mỏng như vậy, nón khi sử dụng vào trời mưa sẽ nhanh chóng bị mục nát và hỏng, bởi vậy để tăng độ bền và sự cứng cáp cho nón, những người thợ thủ công còn xếp thêm lớp lá nón nữa vào những khe hở. 

     Lá nón cần được xếp một cách tỉ mỉ, không quá thưa cũng không quá dày, khi đã xếp xong, cần cắt phần lá còn thừa ở đuôi. Công đoạn tiếp theo, thợ thủ công lấy dây buộc chặt lá nón được trải đều trên khung và bắt đầu khâu. Người thợ đặt lá lên sườn nón để chằm nón thành hình chóp. Chỉ khâu có thể dùng sợi cước trắng để tránh mất mĩ quan cho nón mà lại rất bền. Đôi bàn tay của người thợ thoăn thoắt khâu như đang múa, chẳng mấy chốc chiếc nón đã được khâu xong. Nhưng khâu xong chiếc nón vẫn chưa hoàn thiện, để nón được đẹp và bền hơn người ta còn quét phủ một lớp dầu bóng lên bề mặt nón. Ngoài ra để làm chiếc nón thêm phần đẹp đẽ, có thể trang trí thêm tranh ảnh, vẽ lên bề mặt nón,… Phía trong mặt nón còn có một sợ dây buộc ngang tạo thành quai nón, để khi dùng không bị bay mất. Quai nón có thể được làm bằng vải nhung, lụa, the,… với sắc màu đa dạng, phù hợp với nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng.

   Chiếc nón có nhiều giá trị, ý nghĩa với con người cả trên phương diện vật chất và tinh thần. Trước hết nón có công dụng che mưa, che nắng cho con người, thời xưa nón là một vật dụng không thể thiếu trong mỗi gia đình. Trong những ngày hè nóng bức chiếc nón còn trở thành quạt, xua tan cái oi nóng của mùa hè,…

   Không chỉ vậy nón còn khơi nguồn cảm hứng nghệ thuật cho con người. Đến với xứ Huế mơ mộng, trong mỗi chiếc nón lại có những bài thơ gửi gắm nỗi niềm tâm sự của người mang nó. 

   Những điệu múa nón dịu dàng, uyển chuyển làm say đắm lòng người. Đối với du khách nước ngoài, họ đặc biệt yêu thích những chiếc nón lá của người Việt.

   Cuộc sống con người ngày càng phát triển, đã có nhiều phương tiện mới ra đời thay thế cho chiếc nón. Nhưng không vì thế chiếc nón mất đi vị trí ý nghĩa của mình. Nón lá là hình ảnh đẹp biểu tượng cho tâm hồn, con người Việt Nam, là một nét đẹp văn hóa của dân tộc ta cần được giữ gìn và phát huy.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 5

“Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che”.

Nón lá là một vật dụng quen thuộc đã đi vào thơ ca Việt Nam tự bao giờ. Nón lá đã góp phần tạo nên vẻ đẹp, duyên dáng cho người phụ nữ Việt Nam.

Nón lá Việt Nam có lịch sử lâu đời, hình ảnh tiền thân của nón lá được tìm thấy trên trống đồng Ngọc Lữ và tháp đồng Đào Thịnh. Từ xa xưa do chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nắng lắm mưa nhiều, tổ tiên ta đã biết lấy lá kết vào nhau để là vật dụng đội lên đầu che nắng che mưa. Dần dần chiếc nón lá đã hiện diện như một vật dụng cần thiết trong đời sống sinh hoạt hằng ngày.

Để làm được một chiếc nón lá đẹp thì việc chuẩn bị nguyên liệu cũng rất quan trọng là lá nón( hoặc có nơi dùng lá cọ), lá buông- một loại lá họ hàng với lá cọ( thường mọc ở vùng đồi núi trung du). Ngoài ra còn cần đến tre, nứa, cước. Để làm nón đẹp khâu chọn lá rất quan trọng. Lá nón màu trắng sữa, gân lá màu xanh nhẹ, lá bóng mướt là đẹp nhất. Người ta thường khai thác lá nón ở vùng đồi núi Phú Thọ, Vĩnh Phúc hay vùng đồi núi Việt Bắc, Trường Sơn, Tây Bắc. Sau khi cắt lá về phải xử lí đúng quy trình kĩ thuật.
Đầu tiên phải sấy khô lá bằng than củi sau đó phơi sương cho lá mềm. Khi lá đạt độ mềm đúng yêu cầu, dùng gang nóng bọc trong túi vải, là cho phẳng phiu. Sau đó người làm nón lại cẩn thận chọn lọc lá một lần nữa cho đồng màu, cắt bớt đầu đuôi để dài khoảng  50 cm. Để làm nón người thợ phải vô cùng khéo léo và tỉ mỉ. Người ta dùng 16 vành tre chuốt nhỏ, mỏng, dễ uốn, cuốn lần lượt từ thấp đến cao và nan lớn rồi nan nhỏ để dựng thành khung nón có hình chóp nhọn.

Khung nón được làm như vậy sẽ tạo dáng nón thanh thoát, hài hòa làm tôn lên vẻ đẹp của người đội nón. Dân gian có câu “ Đẹp nón nhờ người thắt, đẹp mặt nhờ người khuôn”.Sau khung làm khuôn là khâu lợp lá nón. Công đoạn này đòi hỏi người thợ phải thật khéo tay làm sao để nón lá phân bố đều trên khung, hình dáng cân đối và khi khâu lá nón không bị chồng lên nhau.

Cuối cùng là công đoạn khâu nón, chỉ khâu bằng loại cước nhỏ trắng muốt. Người khâu phải căn cho mũi chỉ đều tăm tắp, uốn theo vành nón. Người thợ còn kì công thêu hình ảnh những cô thiếu nữ, đóa hoa hay cảnh đẹp quê hương có khi là cả một bài thơ. Một chiếc nón đẹp là cả sự chăm chút của người làm nón.

Ở nước ta có rất nhiều địa phương làm nón lá nổi tiếng. Ở miền Bắc có làng Chuông, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Miền Trung có làng nón Ba Đồn Quảng Nam và đặc biệt là nón bài thơ của Thừa Thiên Huế. Với người Việt Nam đặc biệt là những người nông dân, nón lá là vật dụng cần thiết. Nón lá dùng để che nắng, che mưa khi làm đồng, dùng thay chiếc quạt khi nghỉ giải lao trên đồng ruộng.

Với các cô gái, chiếc nón lá cùng với tà áo dài làm tôn lên vẻ kín đáo, dịu dàng. Nón lá là món đồ trang sức không cầu kì đắt tiền mà đẹp một vẻ đẹp giản dị, mộc mạc như chính tâm hồn con người Việt Nam. Đâu đâu ta cũng thấy thấp thoáng những chiếc nón lá dù là đi chợ hay đi hội ta đều gặp các bà, các mẹ dưới nón lá nghiêng tre.

Nón lá cũng là vật dụng mà mẹ chồng trao cho con dâu trước khi về nhà chồng để cầu chúc cho cuộc sống vợ chồng trăm năm bền chặt. Đó cũng là món quà lưu niệm mà du khách nước ngoài mang về để tặng cho người thân. Nón được làm bằng lá nên khi sử dụng cần nhẹ nhàng, khi không dùng thì treo lên cao, tránh để rơi, dễ bị méo, thủng. Khi trời mưa có thể bọc ngoài nón một lớp túi bóng trắng mỏng, nếu bị ướt thì phơi khô tránh bị ố vàng.

Ngày nay có rất nhiều vật dụng như mũ, ô…ra đời dần dần có thể thay thế nón nhưng hình ảnh chiếc nón vẫn chiếm một vị rí quan trọng trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam để rồi mỗi chúng ta cần có thái độ tôn trọng nét đẹp truyền thống này.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 6

Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên

Cứ mỗi lần nghe ai nhắc đến nón lá là tôi lại nhớ đến “Bài thơ đan nón” của Nguyễn Khoa Điềm. Trong bài thơ chứa đựng sự dịu dàng, bình dị, thân thiện của người phụ nữ Việt.

Chiếc nón lá ra đời từ 2500 – 3000 năm trước công nguyên. Mỗi chiếc nón lá là biểu tượng lịch sử hình thành và lưu giữ cho đến ngày nay, đã chứng tỏ được sự bền vững của sản phẩm này. Chiếc nón lá hiện diện trong cuộc sống hàng ngày của người dân Việt, đặc biệt là người phụ nữ, hiện diện trong các cuộc thi gìn giữ nét đẹp văn hóa.

Nhắc đến nón lá thì chắc chắn mọi người sẽ nghĩ ngay đến Huế- mảnh đất nên thơ, trữ tình có tà áo dài và nụ cười duyên của cô gái Huế. Huế cũng được biết đến là nơi sản xuất nón lá với nhiều thương hiệu nổi tiếng. Những làng nghề làm nón lá ở Huế đã thu hút không ít khách du lịch ghé thăm và chọn sản phẩm này làm quà. Để làm được chiếc nón lá đẹp thì người làm cần phải tinh tế, tỉ mỉ khâu lựa chọn nguyên liệu, cách phơi lá, cách khâu từng đường kim mũi chỉ. Người ta vẫn bảo làm ra một chiếc nón lá cần cả một tấm lòng là vì vậy. Nón lá có thể được làm bằng lá dừa hoặc lá cọ. Mỗi loại lá mang đến sự khác nhau cho sản phẩm. Thường thì những sản phẩm nón lá làm từ dừa có nguồn gốc từ Nam Bộ vì đây là nơi trồng nhiều dừa. Tuy nhiên, làm từ lá dừa sẽ không đẹp, tinh tế như lá cọ, lá cọ có độ mềm mại, chắc chắn hơn. Khi lựa chọn lá cũng phải chọn những chiếc lá có màu xanh, bóng bẩy, có nổi gân để tạo điểm nhấn cho sản phẩm. Quá trình phơi cho lá dễ làm cũng cần từ 2-4 tiếng, lá vừa mềm, vừa thẳng. Khâu làm vành nón là khâu vô cùng quan trọng để tạo khung chắc chắn cho sản phẩm. Người dùng cần phải lựa chọn nan tre có độ mềm và dẻo dai, khi chuốt tre thì cần phải chuốt tỉ mỉ để đến khi nào công đoạn uốn công thì không sợ bị gãy. Sau đó, người dùng sẽ uốn theo những đường kính từ nhỏ đến lớn tạo thành khung cho nón lá sao cho tạo thành một hình chóp vừa vặn. Khi đã tạo khung và chuẩn bị lá xong sẽ đến giai đoạn chằm nón. Đây là giai đoạn giữ cho khung và lá bám chặt vào nhau. Thường thì người làm sẽ chằm bằng sợi nilon mỏng nhưng giai, có màu trắng và trong suốt. Lúc xong thì người làm sẽ quết dầu, làm bóng và phơi khô để dầu bám chặt vào nón, tạo độ bền khi đi nắng mưa.

Đi dọc mọi miền đất nước, không nơi nào không có nón lá. Không chỉ che mưa, che nắng mà nó còn xuất hiện trong các tiết mục nghệ thuật, được đến các nước bạn trên thế giới. Nét đẹp văn hóa của nón lá chính là nét đẹp cần được bảo vệ, giữ gìn. Nhắc đến nón lá chắc chắn phải nhắc đến áo dài Việt Nam, đây là hai thứ luôn đi liền với nhau, tạo nên nét đặc trưng riêng của người phụ nữ Việt Nam từ ngàn đời.

Để giữ chiếc nón lá bền với thời gian thì người dùng phải khéo léo bôi dầu thường xuyên, tránh làm hỏng hóc, sờn nón.

Chiếc nón lá Việt Nam là sản phẩm của người Việt Nam làm tôn thêm vẻ đẹp của người phụ nữ và khẳng định sự tồn tại lâu đời của sản phẩm này.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 7

Nón lá cọ là vật dụng quen thuộc và gần gũi trong đời sống người nông dân Việt Nam. Có thể nói nón lá cọ là vật đội đầu truyền thống, trở thành biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp thanh mảnh, nhẹ nhàng của chiếc nón bài thơ, cùng với tà áo dài bay trong gió đã làm tôn lên vẻ đẹp của người con gái.

Nón lá là vật dụng đội đầu có vai trò che nắng che mưa. Nón được làm từ lá cọ nên được gọi chung là nón lá. Nón lá cọ còn được xem là một trang phục truyền thống của dân tộc ta. Hình dáng của nón lá cọ rất đặc biệt. Nón có hình chóp tròn. Kích thước của nón thường có đường kính vành khoảng 50cm, cao 30cm. Nón lá cọ thường có màu trắng đục của lá. Tuy nhiên, người ta cũng có thể sơn màu để nón bền và đẹp hơn. Chất liệu để làm nón là lá cọ. Ngoài lá cọ, nón còn được làm từ nhiều loại lá khác. Tuy nhiên, nó làm bằng lá cọ là phổ biến nhất bởi lá cọ bền và dễ làm hơn các loại lá khác.

Cấu tạo của nón lá gồm có vành nón, chóp nón, lá cọ nguyên liệu và quai nón. Vành nón được làm từ những thanh tre uốn cong thành hình tròn có nhiều kích thước từ to nhất ở vành quai đến nhỏ dần ở chóp. những thanh tre được sơ chế kỹ lưỡng để chống mối, mọt và làm tăng độ bền. Nguyên liệu lá cọ chọn làm nón được tuyển lựa và xử lý cẩn thận, đảm bảo khô và dai. Lá được chằm vào vành khung bằng dây cước. Ở vành quai, người ta chằm sẵn hai móc quai.

Mỗi một chiếc nón thường sẽ có quai đeo làm bằng vải mềm hoặc lụa. Quai nón được thắt chặt vào vành vai, khi đội, quai quàng ngang cằm cổ giữ nón không bị lệch hoặc rơi. Để tránh làm nón bị hỏng, ở chóp người ta thường chằm một lớp ni lông chống thấm nước. Toàn bộ nón được sơn một lớp dầu bóng hoặc sơn màu chống thấm nước và giúp nón bền đẹp hơn.

Để làm ra một chiếc nón lá cọ đơn giản, người ta phải trải qua nhiều công đoạn. Trước hết là chuẩn bị nguyên vật liệu gồm: lá cọ đã qua xử lí, vành tre, kim khâu, cước khâu,… Đầu tiên, người ta cố định vành nón từ nhỏ đến lớn trên một cái khung. Sau đó xếp đều đặn lá cọ lên trên và dùng kim khâu khâu từng lá một cho dính chặt vào khung. Thao tác này gọi là chằm khung. Để nón lá đẹp, bền chắc các mũi kim phải đều đặn, lá phải xếp ngay ngắn, phủ kín không hở. Cứ lần lượt làm như thế cho đến khi lá cọ đã phủ hết vành nón là chuyển qua khâu bẻ vành, kết đỉnh.

Ở rìa lớn nhất của nón, lá còn dư sẽ được cắt bỏ, sau đó dùng kim khâu kết chặt vành lớn và lá cọ sao cho khin khít. Để lá cọ không bị bung lên trong quá trình sử dụng, người thợ đã khéo léo cài một thanh tre mỏng nẹp chặt vành nón. Ở vành thứ 3-4 tính từ vành lớn, người thợ kết hai búi chỉ để cột quai nón.

Kết đỉnh là se khít đỉnh nón không để nước chảy vào. Phần này phía bên trong người ta thường ép thêm một lớp nilon mỏng chống nước. Các đường chỉ mỏng khin khít nhau làm cho chóp nón cứng cáp, bền chặt.

Chiếc nón lá không những là một vật dụng hữu ích mà từ lâu đã trở thành một nét đẹp trong trong đời sống người Việt Trước hết, nón lá có vai trò che giữ cho đầu không bị ướt mưa, chói nắng, bảo vệ phần đầu trước mọi tác động của thiên nhiên. Bởi thế chiếc nón thường được con người sử dụng khi lao động hàng ngày.

Chiếc nón còn được sử dụng như một cái quạt làm mát trên những chặng đường xa, hay trong ngày hè nóng nực. Người nông dân dùng nón làm quạt xua đi nỗi mệt nhọc trên đồng ruộng. Không những thế, nhờ kĩ thuật ghép lá tỉ mỉ, chiếc nón đôi khi còn dùng để múc nước mà không hề chảy.

Chiếc nón lá gắn chặt với hình ảnh các bà, các cô, các thiếu nữ làm tăng thêm vẻ duyên dáng. Nhất là khi chiếc nón lá đi cùng với chiếc áo dài thướt tha tạo nên một vẻ đẹp quyến rũ vô cùng. Đó cũng là vẻ đẹp truyền thống từ ngàn đời nay của con người Việt Nam ta.

Chiếc nón lá còn được sử dụng như một dụng cụ ca múa, trang trí làm đẹp không gian. Hình ảnh chiếc nón còn đi vào thơ ca, nhạc, họa và các loại hình nghệ thuật khác trở thành biểu tượng của cái đẹp và tâm hồn bình dị, hồn hậu của con người Việt Nam.

Nón lá cọ đã hiện diện trong đời sống hằng ngày của người Việt Nam trong cuộc chiến đấu giữ nước. Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, nghề chằm nón vẫn được duy trì và tồn tại đến ngày nay. Ngày nay, với sự xuất hiện của nhiều trang phục đội đầu, chiếc nón lá không còn được ưa chuộng như trước nhưng vẫn còn được các bà các cô ở những miền quê sử dụng hằng ngày.

Chiếc nón lá cọ là một biểu tượng của người phụ nữ Việt, gắn liền với cả đời sống vật chất và tinh thần của chúng ta. Đi khắp miền đất nước, hình ảnh chiếc nón lá cọ vẫn luôn là hình ảnh chúng ta dễ bắt gặp hơn cả. Đó vừa là nét đẹp bình dị, mộc mạc, duyên dáng của người phụ nữ Việt, vừa là một biểu tượng văn hóa của một đất nước trọng tình trọng nghĩa của nước Nam ta. Biểu tượng ấy đã góp phần làm nên một vẻ đẹp rất Việt Nam.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 8

Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha. Và đi cùng tà áo dài đó chắc chắn không thể thiếu chiếc nón lá xinh đẹp. Chiếc nón lá đã đồng hành cùng dân tộc ta cả nghìn năm nay. Có thể coi chúng chính là chứng nhân lịch sử của dân tộc ta.

Để làm ra một chiếc nón hoàn chỉnh, bền đẹp và chắc chắn cần phải trải qua rất nhiều công đoạn khác nhau. Ở mỗi làng nghề lại có những bí quyết riêng, tạo nên sự độc đáo, khác biệt cho làng nghề của mình. Tuy là vậy, nhưng về cơ bản có thể thấy để làm một chiếc nón cần trải qua những công đoạn sau. Khâu đầu tiên chính là lựa chọn lá để làm nón. Lựa được chiếc lá tốt, đẹp chính là bước quan trọng nhất để tạo nên chiếc nón đẹp. Nón thường được làm bằng lá nón, lá buông, rơm, tre,… nhưng chủ yếu vẫn được làm bằng lá nón. Sau khi lựa chọn lá để làm nón công đoạn tiếp theo chính là làm khung nón. Khung nón được tạo nên từ những thanh tre mảnh, nhưng rất đỗi dẻo dai, chúng được uống thành đường tròn với những kích thước khác nhau, sao cho khi xếp lại tạo thành hình chóp. Đường kính lớn nhất của vòng tròn là 50cm và nhỏ nhất là 3cm. Đây là hai khâu quan trọng nhất để tạo nên một chiếc nón.

Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ những vật dụng trên, đôi bàn tay khéo léo và tài hoa của những người nghệ nhân sẽ dùng những chiếc kim khâu lớn và sợi cước để kết nối các phần lại với nhau. Lá nón được đan chồng lên nhau thành nhiều lớp tạo nên sự chắc chắn. Nhưng bên cạnh đó một số nơi, lá nón chỉ được xếp thành 1,2 lớp tạo nên nét thanh mảnh, rất đặc biệt. Sau khi khâu xong, lá nón sẽ được quét một lớp dầu phủ lên trên bề mặt ngoài nón để nón khó bị ngấm nước khi đi dưới trời mưa và tránh mối mọt, làm tăng độ bền cho nón. Đồng thời lớp sơn ấy cũng khiến nón bóng, đẹp hơn.

Trước đây, khi ta còn chưa có những vật dụng che chắn khác như ô thì nón lá chính là người bạn đồng hành thân thuộc của tất cả mọi người vào ngày mưa rào cũng như ngày nắng nóng. Những ngày hè oi ả, dùng chiếc nón quạt cũng bớt đi phần nào nóng bức. Hay những ngày mưa bão, nón cũng là công cụ đắc lực để tránh ướt. Trong cuộc sống hiện đại, dù đã có nhiều phương tiện khác nhau để che nắng, che mưa nhưng nón lá vẫn giữ nguyên giá trị nó. Nón lá trở thành biểu tượng của Việt Nam, mà mỗi khi nhắc đến ban bè quốc tế sẽ lập tức nhớ đến một Việt Nam thân thiện, xinh đẹp. Không chỉ vậy, nón lá còn khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho các thi nhân. 

Dù trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, biến bao biến động dữ dội của thời đại, nhưng chiếc nón vẫn vững bền cùng con người Việt Nam kiên cường, bất khuất. Chiếc nón là là một trong những biểu tượng đẹp đẽ của dân tộc Việt. Là thế hệ trẻ chúng ta cần phải có ý thức giữ gìn và phát huy hơn nữa giá trị của nó.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 9

“Nón nầy che nắng che mưa
Nón nầy để đội cho vừa đôi ta"

Tôi là chiếc nón lá Việt Nam không xa lạ với con người, ngày nay ở hải ngoại chỉ thấy nón lá xuất hiện trên sân khấu, trình diễn nghệ thuật múa nón và áo dài duyên dáng mền mại kín đáo của thiếu nữ Việt Nam nổi bật bản sắc văn hoá dân tộc, áo dài và nón lá là nét đặc thù của phụ nữ Việt Nam, chắc chắn không ai chối cãi. Nếu mặc áo đầm, hay quần tây mà đội nón không tạo được nét đẹp riêng.

Tôi dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi. Họ hàng nhà nón được chia thành nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:
Nón dấu: Nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa

Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng tới tôi, nhưng ít người để ý đến tôi có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu cm. Tôi tuy giản dị rẻ tiền nhưng để tạo nên tôi cần người thợ phải khéo tay. Nghề chằm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón. Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy.

Ngày nay dù đã phát triển nhưng trên những cánh đồng lúa xanh tươi ngoài Bắc, trong những trưa hè nắng gắt, người ta còn dùng lá tơi để che nắng, giống như con công đang xòe cánh. Người ta chặt những bé lá còn búp, cành bé lá có hình nan quạt nhiều lá đơn chưa xoè ra hẳn phơi khô, cột lại thành từng bó nhỏ gánh bán cho những vùng quê có người chằm nón. 

Tôi thường chỉ 16 vành tròn làm bằng tre cật vót nhỏ đều nhau nối lại, tôi còn được thêu trên mình những bài thơ nhẹ mỏng chỉ 2 lớp lá trong chen hình cảnh và các câu thơ, nón thường độ bền lâu hơn dày có 3 lớp phần trong lót thêm loại lá đót, (loại cây này giống cây sậy, khi trổ bông người ta lấy bông làm chổi) Chằm xong nón tháo khỏi khung, cắt lá thừa nức miệng nón và làm quai, nón rộng đường kính thường 41cm, người ta phết phía ngoài lớp mỏng sơn dầu trong suốt nước mưa không thấm qua các lỗ kim vào bên trong. Để có được một chiếc nón, phải trải qua 15 khâu, từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ…

Những chiếc nón bài thơ thường trở thành vật “trang sức” của biết bao thiếu nữ lựa nón, lựa quai, cũng là một thú vui nên không ít người đã kỳ công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề.

Đời sống văn minh, phát triển nhưng dòng họ nhà nón lá vẫn thuần túy nguyên hình của nó. Ở bất cứ nơi đâu, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng mênh mông, dọc theo sông dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời không đổi thay.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 10

Người phụ nữ Việt Nam, xưa nay đều mang vẻ đẹp dịu dàng và đằm thắm với chiếc áo dài trắng thướt tha trong gió, và không thể thiếu hình ảnh chiếc nón lá gần gũi và thân thuộc. Gắn bó với đời sống đã lâu, chiếc nón lá nay đã thành biểu tượng văn hóa đẹp, đáng tự hào của dân tộc ta.

Nón lá đã xuất hiện từ rất lâu đời, có những nghiên cứu chỉ ra rằng, hình ảnh nón lá đã xuất hiện trên mặt trống đồng từ những năm 2500-3000 TCN. Nón có dạng hình chóp, tròn và vành rộng nên che nắng rất tốt. Đặc biệt, nón lá được làm từ những nguyên liệu tự nhiên, rất thân thiện và gần gũi với môi trường. Khung nón được làm bằng tre, vót tròn và quấn thành những vòng lớn nhỏ, mỗi chiếc nón cần 16 chiếc vòng như vậy tạo thành hình chóp, sâu khoảng 10cm. Dưới bàn tay điệu nghệ của người làm nón, vành nón không khác gì một tác phẩm nghệ thuật kỳ công, mỗi vòng đều được đặt tỉ mỉ và chính xác, không được méo và lệch, đảm bảo làm ra một chiếc nón đẹp và chất lượng nhất. Từ vòng to nhất khoảng 60cm cho đến vòng nhỏ nhất chỉ bằng một đầu ngón tay. Ban đầu, người thợ phải lấy mo nang làm cốt nón, sau đó lợp nón bằng lá cọ. Công đoạn chọn lá cần rất cẩn thận và kỹ lưỡng, lá cọ không được quá non cũng không được quá già. Cọ đem về được rửa sạch rồi phơi khô dưới nắng cho thật mềm và thật bền, sau đó là phẳng, khi đạt đủ tiêu chuẩn mới đem đi lợp nón. Người thợ xếp lá lên vành khuôn ngay ngắn, một chiếc nón sẽ có hai lớp lá và một lớp mo nang ở giữa. Những lá cọ đẹp và trắng sẽ được xếp ra ngoài nhìn sao cho đẹp mắt và tinh tế nhất. Quá trình khâu nón có lẽ tỉ mỉ hơn tất cả, nón được khâu bằng sợi cước, sợi guột nên vô cùng chắc chắn. Những đường kim mũi chỉ của người thợ làm nón đâm lên đâm xuống nhịp nhàng và thoăn thoắt, làm ra những chiếc nón lá thật đẹp và bền. Chưa hết, sau khi khâu xong, chiếc nón còn được quét thêm một lớp dầu bóng để bền đẹp và không bị mốc. Tùy từng địa phương sẽ có cách trang trí nón khác nhau, có nơi thêu lên đó bài thơ, có nơi lại thêu lên những hình ảnh thật đẹp, cô thiếu nữ hiền thục hay một bông hoa đang nở rộ. Quai nón thường được làm bằng vải nhung, rất mềm và êm, được buộc vòng từ bên này sang bên kia nón để giúp nón cố định chắc chắn khi đội.

Chiếc nón lá gần gũi, bình dị đã gắn bó với các bà, các mẹ, các chị mỗi buổi làm đồng, mỗi ngày đến trường. Nón lá không chỉ xua đi cái nắng gay gắt của mùa hè oi bức, che những hạt mưa rào bất chợt, đây còn là biểu tượng đẹp đẽ của văn hóa Việt. Ngắm những chiếc nón nhấp nhô trên cánh đồng lúa chín vàng, trên đường phố nhộn nhịp, chiếc nón lá mà người mẹ chồng vui vẻ đội cho nàng dâu mới trong đám cưới truyền thống, thấy cả một nền văn hóa truyền thống lâu bền đầy giá trị của ông cha ta ở đó. Bây giờ, nón lá còn mang nhiều giá trị ý nghĩa khác, xuất hiện trên các sân khấu nghệ thuật cũng như trong những câu ca, điệu hò, bài hát về quê hương xứ sở, có ai không yêu, không trân trọng chiếc nón lá bình dị này. Nón là cũng là món quà đầy ý nghĩa được các du khách đến Việt Nam lựa chọn, họ đội chiếc nón lá Việt, nở nụ cười tươi, dường như khoảng cách dân tộc đã biến mất tự bao giờ.

Ngày nay, xã hội hiện đại và ngày một phát triển không ngừng, tuy nhiên, chiếc nón lá vẫn là một vật dụng quen thuộc, vẫn là một biểu tượng đẹp vững bền. Nhìn thấy chiếc nón lá ở đâu, ta thấy cả đất nước Việt ta ở đó:

“Ôi nón bài thơ của xứ nhà
Có bàn tay nhỏ nở như hoa
Có thành phố cổ giàu mưa nắng
Bóng nón đi về thêm thiết tha.”


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 11

Nón lá là hình ảnh quen thuộc, gần gũi đối với người phụ nữ Việt Nam từ xưa tới nay. Chiếc nón lá gắn với tà áo dài truyền thống, với lời ăn tiếng nói, phong tục tập quán của Việt Nam. Và nón là chính là biểu tượng của Việt Nam đối với bạn bè các nước năm châu, là linh hồn, là tinh hoa của nét đẹp nghìn năm văn hiến.

Thật vậy, đi đâu trên đất nước Việt Nam, chúng ta đều bắt gặp hình ảnh chiếc nón là mộc mạc, chân chất nhưng lại ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa. Nón lá không chỉ là vật dụng của người phụ nữ chân quê, mà nó còn là món quà tinh thần mà Việt Nam dành tặng các nước trên thế giới. Không phải đi đâu, người ta cũng biết đến nón lá Việt Nam có tầng sâu ý nghĩa. Tất cả đều có nguyên do của nó.

Nón lá xuất hiện từ rất lâu, khoảng 2500 - 3000 TCN và được lưu truyền cho đến ngày nay. Đối với người phụ nữ Việt thì nón lá lá biểu tượng quan trọng trong cuộc sống của họ. Từ trong những làn điệu dân ca, đến những lời thơ, câu văn đều thấp thoáng hình ảnh chiếc nón lá Việt Nam đi liền với tà áo dài truyền thống.

Để tạo ra chiếc nón lá như hiện nay, cần sự tỉ mỉ và kì công của người làm nón. Phải có cái tâm, cái tình thì mới tạo nên được những chiếc nón có thiết kế tài tình và họa tiết tỉ mỉ như vậy. Ngay từ khâu lựa chọn nguyên liệu đã thấy được sự kì công của người đan nón. Làm nón cần cả tấm lòng chứ không phải chỉ cần có đôi tay. Những người thổi hồn vào những chiếc nón là những người thực sự có tâm.

Nón lá có thể được làm từ lá cọ hoặc lá dứa tùy mỗi vùng miền. Sự khác nhau của nón lá ở mỗi loại được thể hiện rõ nét trên từng sản phẩm. Rất dễ dàng để người dùng có thể nhận ra sự khác biệt này. Ở khu vực Nam Bộ với đặc trưng trồng nhiều dừa nên nghề làm nón phát triển mạnh mẽ và được lưu truyền từ đời này sang đời khác.

Khi lựa chọn lá cọ hoặc lá dừa cũng cần phải cẩn thận chọn lá dày, màu xanh đậm, không bị rách, có nổi gân để làm nón đẹp và chắc chắn nhất. Khi chọn lá xong cần phải phơi lá cho thật mềm tùy thời gian để tạo độ đàn hồi cho chiếc lá trong quá trình làm ra sản phẩm.

Một khâu quan trọng không kém chính là làm vành nón, nó sẽ tạo nên chiếc khung chắc chắn có thể giữ được lớp lá ở bên ngoài. Tre cần được gọt giũa thật mềm và dẻo dai, trau chuốt tỉ mỉ. Khi uốn cong cần cẩn thận để không bị gãy hoặc bị bẻ cong. Bởi vậy khâu chọn tre làm vành nón cũng cần cẩn thận và thật tỉ mỉ.

Sau khi đã làm được khung nón thì người làm nón bắt đầu chằm nón, tức là gắn kết vành nón với lá nón làm sao cho hai cái này kết dính, không tách rời khỏi nhau. Làm giai đoạn này càng tỉ mỉ thì chiếc nón sẽ được hoàn thành một cách chắc chắn và đẹp mắt nhất.

Công đoạn cuối cùng chính là phơi nón và bôi lên nón lớp dầu thông bóng loáng. Việc làm này để tạo độ bền, tránh hư hỏng khi có mưa hoặc nắng.

Chiếc nón lá là biểu tượng của người phụ nữ Việt, gắn với đời sống tinh thần của họ. Đi đâu trên đất nước này, chúng ta cũng sẽ bắt gặp được hình ảnh chiếc nón lá. Đó là nét đẹp, nét duyên của người phụ nữ Việt nam mà không phải đất nước nào cũng có được. Nó là biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, duyên dáng của người phụ nữ. Nón lá đi liền với tà áo dài, tạo nên một vẻ đẹp rất Việt Nam.

Nón lá là sản phẩm của Việt Nam, biểu tượng cho phụ nữ Việt và cho truyền thống Việt.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 12

 Nước Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên quanh năm nóng lắm, mưa nhiều. Cùng với tà áo dài thướt tha, tự bao giờ chiếc nón lá Việt Nam đã sinh ra và sống mãi theo bề dài của lịch sử văn hóa Việt Nam, và đi vào thơ ca, nhạc họa. Sau đây chúng ta hãy đi vào tìm hiểu thêm về chiếc nón lá đáng yêu này.

   Về cấu tạo, nón là một loại nón phần lớn được làm bằng lá buông, lá dừa, lá gồi, lá cọ, là hồ hay lá du quy diệp, cùng với tre trúc là nguyên liệu làm vành nón. Vật liệu đơn sơ bao nhiêu thì ngược lại, công phu làm nón lại tỉ mỉ bấy nhiêu.

   Muốn làm một chiếc nón lá, đầu tiên phải có một cái khung làm nón. Khung làm nón này là một khối, hình chóp, làm bằng gỗ, hình dáng nó thô hay thanh do tùy vùng miền. Nón lá Huế có dánh thanh hơn nón lá Nam Bộ vì độ rộng nhiều và độ sâu của khung ít hơn.

   Sau đó, phải đi lựa mua lá loại vừa tầm, phơi trong nắng chiều cho hơi se lại. Sang hôm sau, ủi lá sao cho lá phẳng, láng mà không cháy trên những dụng cụ riêng. Sau khi tỉa bớt những đầu thừa đuôi thẹo của lá, đến giai đoạn chuốt nan tre. Việc này có thể do nam hay nữ làm, nhưng phải chuốt đều, bằng tre còn tươi, uốn thành những vồng tròn bóng bẩy, dẻo dai, cột lại bằng dây cước rồi xếp vào khuôn gỗ theo thứ tự từ nhỏ nhất ở đỉnh nón và lớn dần… đến vành thứ mười sáu là vành cuối cùng. Kể đến, xếp lá lên đều đặn rồi bắt đầu chằm nón bằng kim nhỏ và những sợi cước trong suốt, mảnh như sợi chỉ, chạy theo mười sáu vành ấy. Chiếc nón đẹp hay xấu, có giá trị cao hay không còn do mũi khâu nhỏ hay to. Mũi khâu càng tỉ mỉ, chiếc nón càng mịn và đẹp, được xếp vào loại đắt tiền, dành cho những phụ nữa khuê các sang trọng sủ dụng.

   Dù nón lá có nhiều loại, nhưng công dụng chung của nón là thật đa dạng. Ngoài việc che mưa tránh nắng, người đi xa, khát nước có đôi khi ghé vào dòng sông hay chiếc ao đầu làng mà múc nước giải khát, rửa mặt.

   Nó còn có mặt khi người phụ nữ làm đồng, đi chợ, bán buôn hay chơi hội. Kèm theo nón lá là chiếc quai lụa, làm tôn lên vẻ yêu kiều sang quý của người phụ nữ Việt.

   Dù bây giờ đời sống thị thành trên chiếc xe gắn máy cần kèm theo chiếc nón bảo hiểm, nhưng chúng ta hy vọng nón lá Việt Nam còn sống mãi với dân tộc Việt Nam. Một người Việt xa xứ, giảng dạy ở Đại học Washington đã có những suy nghĩ rất hay về nón lá: "Tôi đã đi khắp bốn phương trời, đã thấy nhiều kiểu mũ, nón của nhiều nước và nhiều dân tộc, nhưng chưa thấy kiểu nón nào bình dị, đoan trang, yêu kiều và duyên dáng, đơn sơ và thực tiễn như chiếc nón lá Việt Nam".


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 13

Người phụ nữ Việt Nam, xưa nay đều mang vẻ đẹp dịu dàng và đằm thắm với chiếc áo dài trắng thướt tha trong gió, và không thể thiếu hình ảnh chiếc nón lá gần gũi và thân thuộc. Gắn bó với đời sống đã lâu, chiếc nón lá nay đã thành biểu tượng văn hóa đẹp, đáng tự hào của dân tộc ta.

Nón lá đã xuất hiện từ rất lâu đời, có những nghiên cứu chỉ ra rằng, hình ảnh nón lá đã xuất hiện trên mặt trống đồng từ những năm 2500-3000 TCN. Nón có dạng hình chóp, tròn và vành rộng nên che nắng rất tốt. Đặc biệt, nón lá được làm từ những nguyên liệu tự nhiên, rất thân thiện và gần gũi với môi trường. Khung nón được làm bằng tre, vót tròn và quấn thành những vòng lớn nhỏ, mỗi chiếc nón cần 16 chiếc vòng như vậy tạo thành hình chóp, sâu khoảng 10cm. Dưới bàn tay điệu nghệ của người làm nón, vành nón không khác gì một tác phẩm nghệ thuật kỳ công, mỗi vòng đều được đặt tỉ mỉ và chính xác, không được méo và lệch, đảm bảo làm ra một chiếc nón đẹp và chất lượng nhất. Từ vòng to nhất khoảng 60cm cho đến vòng nhỏ nhất chỉ bằng một đầu ngón tay. Ban đầu, người thợ phải lấy mo nang làm cốt nón, sau đó lợp nón bằng lá cọ. Công đoạn chọn lá cần rất cẩn thận và kỹ lưỡng, lá cọ không được quá non cũng không được quá già. Cọ đem về được rửa sạch rồi phơi khô dưới nắng cho thật mềm và thật bền, sau đó là phẳng, khi đạt đủ tiêu chuẩn mới đem đi lợp nón. Người thợ xếp lá lên vành khuôn ngay ngắn, một chiếc nón sẽ có hai lớp lá và một lớp mo nang ở giữa. Những lá cọ đẹp và trắng sẽ được xếp ra ngoài nhìn sao cho đẹp mắt và tinh tế nhất. Quá trình khâu nón có lẽ tỉ mỉ hơn tất cả, nón được khâu bằng sợi cước, sợi guột nên vô cùng chắc chắn. Những đường kim mũi chỉ của người thợ làm nón đâm lên đâm xuống nhịp nhàng và thoăn thoắt, làm ra những chiếc nón lá thật đẹp và bền. Chưa hết, sau khi khâu xong, chiếc nón còn được quét thêm một lớp dầu bóng để bền đẹp và không bị mốc. Tùy từng địa phương sẽ có cách trang trí nón khác nhau, có nơi thêu lên đó bài thơ, có nơi lại thêu lên những hình ảnh thật đẹp, cô thiếu nữ hiền thục hay một bông hoa đang nở rộ. Quai nón thường được làm bằng vải nhung, rất mềm và êm, được buộc vòng từ bên này sang bên kia nón để giúp nón cố định chắc chắn khi đội.

Chiếc nón lá gần gũi, bình dị đã gắn bó với các bà, các mẹ, các chị mỗi buổi làm đồng, mỗi ngày đến trường. Nón lá không chỉ xua đi cái nắng gay gắt của mùa hè oi bức, che những hạt mưa rào bất chợt, đây còn là biểu tượng đẹp đẽ của văn hóa Việt. Ngắm những chiếc nón nhấp nhô trên cánh đồng lúa chín vàng, trên đường phố nhộn nhịp, chiếc nón lá mà người mẹ chồng vui vẻ đội cho nàng dâu mới trong đám cưới truyền thống, thấy cả một nền văn hóa truyền thống lâu bền đầy giá trị của ông cha ta ở đó. Bây giờ, nón lá còn mang nhiều giá trị ý nghĩa khác, xuất hiện trên các sân khấu nghệ thuật cũng như trong những câu ca, điệu hò, bài hát về quê hương xứ sở, có ai không yêu, không trân trọng chiếc nón lá bình dị này. Nón là cũng là món quà đầy ý nghĩa được các du khách đến Việt Nam lựa chọn, họ đội chiếc nón lá Việt, nở nụ cười tươi, dường như khoảng cách dân tộc đã biến mất tự bao giờ.

Ngày nay, xã hội hiện đại và ngày một phát triển không ngừng, tuy nhiên, chiếc nón lá vẫn là một vật dụng quen thuộc, vẫn là một biểu tượng đẹp vững bền. 


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 14

Nhắc đến biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam, người ta sẽ nghĩ ngay đến chiếc áo dài thướt tha, mềm mại cùng với chiếc nón lá duyên dáng tuyệt vời. Phải chăng chính vì sự gần gũi, hữu ích và vẻ đẹp giản dị nhưng thanh cao, mà chiếc nón lá đã trở thành một trong những hình ảnh tượng trưng cho nền văn hóa Việt?

Nón lá thường được biết đến là một vật dụng dùng để che mưa che nắng. Về nguồn gốc hình thành, nón lá chính thức có từ khi nào thì chúng ta còn chưa tìm hiểu được chính xác. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, có rất nhiều làng nghề làm nón truyền thống ngàn đời như làng Đông Giao ở Phú Thọ, làng Phủ Cam (Huế), ... Những làng nghề này ngoài việc sản xuất nón phục vụ nhu cầu thị trường, còn là những điểm tham quan du lịch để du khách có thể đến để tìm hiểu về lịch sử chiếc nón lá Việt Nam.

Nhìn chung, nón lá thường được cấu tạo đơn giản. Nón có thể được đan bằng các loại lá khác nhau như lá cọ, lá dừa hay lá cối,… nhưng phổ biến nhất vẫn là lá nón. Nón thường có hình chóp. Khung bên trong được đan bằng những nan tre nhỏ, sau đó bên ngoài sẽ bao quanh bởi lá nón, lớp vỏ bao quanh này được cố định bằng các sợi chỉ hay các sợi cước. Một bộ phận quan trọng khác của nón là dây đeo dây đeo, thường sẽ làm bằng vải mềm hoặc nhung lụa để có thể giữ ở dưới cằm khi đội.

Quy trình làm ra một chiếc nón lá không quá phức tạp, nhưng lại đòi hỏi ở người thợ thủ công sự cẩn thận, tỉ mỉ và khéo léo. Đầu tiên, người ta sẽ lấy từng chiếc lá nón, làm cho phẳng rồi ghép chúng lại với nhau, khoảng 24 cho đến 25 chiếc lá cho một khuôn nón. Công đoạn tiếp theo, thợ thủ công dùng dây cột thật chắc những chiếc lá nón này lại, san đều trên một chiếc khuôn hình chóp được đan, uốn sẵn từ những thanh tre. Ở hai đầu đối diện bên trong nón, người thợ sẽ thường dùng chỉ kết thành hai bên đối xứng và chéo nhau để lấy chỗ buộc quai nón. Quai nón thường sẽ là một dải nối dài có chiều ngang khoảng 4 cm. Để trang trí, nón thường được thêu ở mặt trong những bức tranh phong cảnh đơn giản và được phủ thêm một lớp bóng bên ngoài để tăng vẻ đẹp và độ bền.

Nón lá bao gồm rất nhiều loại khác nhau. Chúng ta có nón quai thao, nón rơm, nón bài thơ (trong nón có thêu một vài câu thơ)… Trong đời sống hàng ngày, chiếc nón lá vô cùng hữu ích, đó chính là dùng để che nắng che mưa. Với đặc tính là vành tương đối rộng, người sử dụng sẽ không lo bị ướt mỗi khi trời mưa hay không lo bị nắng chiếu vào. Không chỉ che nắng, che mưa cho người sử dụng mà chiếc nón lá còn trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Từ ngàn đời, phụ nữ Việt trong tà áo dài và đội chiếc nón lá đã trở thành một biểu tượng vô cùng đẹp cho dân tộc. Trong văn hóa nghệ thuật, nón lá được sử dụng như là một đạo cụ trong biểu diễn, múa nón trở thành một điệu múa tiêu biểu cho sân khấu dân gian.

Mặc dù ngày nay, chiếc nón lá đang dần thu hẹp vị trí và khả năng ứng dụng của nó, thay vào đó là những loại nón mũ tiện dụng thời trang hơn du nhập từ nước ngoài. Song, chúng ta không thể phủ nhận được những giá trị văn hóa, giá trị lịch sử mà chiếc nón lá mang lại. Đây là một vật dụng truyền thống cần được bảo tồn và lưu giữ.

Chính bởi sự phổ biến trên khắp mọi miền đất nước và lưu giữ truyền thống dân tộc, chiếc nón lá đã cùng với tà áo dài thướt tha trở thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam. Nhiều người Việt xa xứ, nơi đất khách quê người trông thấy hình ảnh chiếc nón lá, luôn có cảm giác như quê hương đang hiện ra trước mắt, gần gũi và thiêng liêng đến lạ kì.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 15

Từ bao đời nay, chiếc nón lá là đồ vật quen thuộc của các bà, các mẹ, các chỉ không chỉ có công dụng như một thứ để che chắn nắng hàng ngày mà còn là một món phụ kiện làm tăng thêm nét duyên dáng, nữ tính cho người phụ nữ.

Nói về nón lá, chúng ta đều biết nón lá đã xuất hiện từ rất sớm trong dòng lịch sử của dân tộc, bằng chứng là hình ảnh chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, thạp đồng Đào Thịnh từ những năm 2000-3000 trước công nguyên. Và đến ngày nay, nón lá vẫn là một sản phẩm thủ công được duy trì tại những làng nghề nổi tiếng như Dạ Lê (Hương Thủy), Đồng Di (Phú Vang), Phủ Cam (Huế). Những nơi này đã trở thành điểm du lịch hút khách cũng chính bởi sản phẩm thủ công tinh tế mà chúng sản sinh ra - nón lá. Nón lá được làm từ lá dừa hoặc lá cọ. Lá dừa phải là lá khô, được xử lí đặc biệt tuy thế người ta vẫn chuộng lá có hơn vì chỉ lá cọ mới tạo nên chiếc nón lá hoàn mĩ nhất. Lá cọ được chọn phải là non vừa với gân lá xanh và màu lá trắng. Sau khi được hơ trên bếp than và phơi sương khoảng 4 tiếng, nón lá sẽ có màu trắng xanh và hiện rõ vân lá màu xanh nhẹ. Tiếp đến công đoạn chằm nón, người thợ phải chằm bằng sợi cước dẻo thật đều tay, sau đó cố định nón bằng nan tre đã uốn khéo thành vòng tròn, cuối cùng cố định chóp nón. Việc còn lại, chỉ cần quét vài lớp dầu bên ngoài lớp lá để nón thêm bóng đẹp và cài thêm dải lụa làm quai đeo để nón thêm duyên dáng là ta đã có một chiếc nón lá thành phẩm hoàn mĩ. Và để giữ gìn sự hoàn mĩ ấy, ta chỉ nên dùng nón khi trời nắng, tránh nước và khi không dùng đến thì để ở những nơi râm mát.

Như đã nói, nón lá vừa có tác dụng che mưa che nắng vừa có tác dụng thẩm mỹ, tô điểm cho vẻ yêu kiều của người phụ nữ. Hình ảnh người nông dân cày sâu cuốc bẫm trên những cánh đồng rộng lớn với chiếc nón lá che ở trên đầu từ lâu đã không còn xa lạ. Hay hình ảnh những người lao động, những dì bán nước cùng ngồi tại gốc đa đầu làng, tay phe phẩy chiếc nón để làm dịu mát những ngày hè oi ả cũng đã vô cùng quen thuộc ở nông thôn xưa. Nay, đất nước hiện đại hơn, chiếc nón ít xuất hiện trong cuộc sống đô thị đời thường nhưng lại đi vào những điệu múa truyền thống, những vở kịch, những câu hát dân ca. T ta còn dùng nón lá để là vật làm duyên cho những chiếc áo dài thướt tha duyên dáng và những bộ áo tứ thân, áo bà ba mềm mại dịu dàng. Không chỉ có vậy, nón lá còn trở thành quà tặng mang đậm truyền thống văn hóa dành cho khách du lịch nước ngoài, trở thành món đồ lưu niệm lưu giữ những nét đẹp của đất nước và con người Việt Nam. Thậm chí trong những lần lãnh đạo các nước đặt chân, chiếc nón lá cũng trở thành món quà đầy ý nghĩa thể hiện lòng hiếu khách của người dân Việt Nam.

Bởi những công dụng thiết thực cùng những ý nghĩa vô vùng sâu sắc của chiếc nón lá, ta cần duy trì nghề làm nón và những làng nghề làm nón lâu đời. Bằng cách ấy, ta không chỉ bảo tồn được một vật dụng đẹp đẽ hữu ích mà còn lưu giữ được nét đẹp văn hóa nước nhà.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 16

Ở một lúc nào đó nơi xứ người, thấy một tà áo trắng tung bay trong gió bên chiếc nón lá nhỏ xinh có thể khiến bất cứ người con Việt Nam cảm thấy xúc động và tự hào về quê hương mình. Và tự bao giờ, cùng với tà áo dài, chiếc nón lá đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp người phụ nữ, cho người nông dân Việt Nam.

Được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong đời sống lao động nhưng ít ai có thể nói được nguồn gốc ra đời của chiếc nón lá. Không ai biết về nơi chính xác nó ra đời, cũng không có những câu chuyện cổ tích về những chiếc nón. Chỉ biết rằng những chiếc nón xưa nhất được tìm thấy khắc trên mặt chiếc trống đồng Đông Sơn và thạp đồng Đào Thịnh cách chúng ta từ 2500 năm đến 3000 năm về trước.

Về phần cấu tạo, theo thời gian, chiếc nón cũng có những thay đổi rất đa dạng để phù hợp và thích ứng. Trong xã hội phong kiến, nón lá được chia thành nhiều loại theo các giai cấp xã hội khác nhau. Những anh lính có riêng cho mình những chiếc nón dấu với kích thước nhỏ, ở chóp có dấu lông gà. Chẳng thế mà dân gian có câu: “Cậu cai nón dấu lông gà” (Ca dao). Nón dừa với kích thước nhỏ, chóp nhọn, vành rộng, xuôi xuống dành cho những cao nhân mặc khách trong giang hồ.

Có loại nón ba tầng hay còn gọi là nón quai thao được làm để dành riêng cho những cô gái Kinh Bắc với vành rộng và thẳng như cái mâm. Những chiếc nón chúng ta thấy nhiều nhất ngày nay, cũng là nón phổ biến trong lao động được gọi là nón nhỡ. Chiếc nón với chóp nhọn, vành rộng, thành dốc, rất hữu dụng cho việc che mưa che nắng.

Chiếc nón lá trông thật đơn giản mà để làm ra nó thì thật không đơn giản như thế. Nguyên liệu làm nón gồm có lá cọ, tre, nứa và chỉ cước. Quy trình đầu tiên là làm khung nón: gồm 16 vành, tre, nứa bánh tẻ vừa mềm để dễ uốn. Quai nón thường làm bằng vải lụa, vải nhung hay vải voan với đủ màu sắc.

Trong quá trình làm nón, công phu nhất là khâu chọn lá và là lá. Lá cọ phải là lá bánh tẻ không quá to, quá nhỏ, nên lấy từ vùng trung du, được phơi trong nắng vừa. Nếu nắng gắt sẽ khiến lá bị giòn trong khi trời mưa sẽ làm mốc lá. Sau đó, người ta dùng một miếng sắt, than đã được nung đỏ bởi bếp than hồng để là thẳng và trơn cho chiếc lá. Là lá đòi hỏi phải có chuyên môn cao nếu không lá rất dễ bị giòn gãy hoặc bị nhăn, ngả vàng.

Tiếp theo, những chiếc lá được đặt trên chiếc khung có sẵn sao cho các gân lá đều phải đều nhau. Những mũi khâu điêu luyện lượn từ đỉnh đến đáy sao cho không để lộ chỉ mới gọi là đạt yêu cầu. Cuối cùng, ở phần đáy nón được khâu đối xứng để làm ngôi và quai nón. Những chiếc nón còn được làm đẹp với những bức tranh phong cảnh bên ngoài hay những chiếc quai bằng vải nhung, lụa đầy duyên dáng.

Những làng nghề làm nón lâu năm đã trở thành “thương hiệu” khắp đất nước có thể kể đến như: làng Chuông (Hà Tây) hay ở tỉnh Quảng Bình, cố đô Huế, … Nếu như nón Quảng Bình và Hà Tây mang vẻ đẹp khỏe khoắn, giản dị, phù hợp với người lao động:

“Muốn ăn cơm trắng, cơm mè
Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông” (Ca dao)

thì những chiếc nón Huế lại rất mềm mại, là biểu tượng của sự nên thơ, trầm mặc của con người và mảnh đất cố đô. Người làm nón Huế thường đặt vào giữa hai lớp lá hình ảnh chùa Thiên Mụ, cầu Tràng Tiền hay một bài thơ trữ tình. Vì thế, một tên gọi khác của nón Huế chính là nón bài thơ.

Chiếc nón lá từ lâu đã trở thành người bạn quen thuộc của người nông dân những làng quê. Trong cuộc sống lao động, những chiếc nón là vật che mưa che nắng, cùng những người nông dân “một nắng hai sương”. Trong đời sống tinh thần của con người, chiếc nón còn trở thành quà tặng của các bà mẹ dành cho con gái vào ngày lấy chồng với mong muốn con sẽ trở thành một nàng dâu ngoan hiền, đảm đang.

Đi vào thơ ca nhạc họa, rất nhiều những bài thơ, lời hát được cất lên như những món ăn tinh thần không thể thiếu. Đặc biệt, chiếc nón còn là hình ảnh cho nỗi vất vả, tảo tần cũng như những phẩm chất đáng quý của bà, của mẹ, của người phụ Việt Nam bao đời. Vì vậy, dẫu ở dải đất chữ S hay đi khắp năm châu bốn biển, chỉ cần nơi đâu có chiếc áo dài tung bay hay những chiếc nón bài thơ, ở đó có tâm hồn Việt Nam, có sức sống Việt Nam.

Chiếc nón hữu ích và giá trị như thế, cần được bảo quản và giữ gìn cẩn thận. Khi mua nón, cần hơ nón trên ngọn lửa diêm sinh hay phết lên một lớp dầu mỡ để chiếc nón bền, đẹp, không bị mốc. Sau mỗi lần sử dụng, nên treo nón lên để tránh bị va chạm hay bị bẹp.

Ngày nay, xã hội hiện đại với sự xuất hiện của ô, mũ, dù thời trang lấn át dần nón lá truyền thống. Nhưng nón lá vẫn tồn tại và ăn sâu vào đời sống lao động, đời sống tâm hồn của người dân, là biểu tượng ho người phụ nữ Việt Nam dịu dàng, giản dị, chân chất, yêu thương.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 17

Một hình ảnh đẹp về con người Việt Nam đó là phong tục, là ẩm thực, là lý tưởng hòa bình. Không ai có thể quên được chiếc bánh chưng xanh, cánh đồng lúa chín, tà áo dài Việt và cả chiếc nón lá.

Nón lá từ lâu đã trở thành nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Chắc hẳn ai đó vẫn còn nhớ, hình ảnh người con gái Việt mặc áo dài, tay cầm nón lá đã trở thành biểu tượng du lịch. Quả thực hình ảnh ấy có sức gợi cảm rất tốt. Đó là điểm ấn tượng của chúng ta đối với du khách và bạn bè quốc tế. Tại sao lại như vậy? Tà áo dài là trang phục truyền thống của chúng ta, vậy còn nón lá thì sao? Nón lá là vật dụng không thể thiếu của người Việt. Bởi lẽ, chúng ta là một nước nông nghiệp, việc làm ngoài trời rất nhiều lại cộng thêm thời tiết nhiệt đới nắng nóng nên cần có một vật dụng tiện lợi để che nắng khi làm việc và nón lá ra đời. Hình ảnh những chiếc nón trắng mấp mô giữa đồng luôn là hình tượng khó có thể phai nhòa. Không chỉ thế, nón lá còn ra đời ở Huế – địa điểm hội tụ những tinh hoa văn hóa của người Việt, từ lịch sử, cho đến ẩm thực, các loại hình nghệ thuật giải trí. Do đó, chiếc nón lá ngày càng trở nên quen thuộc với khách thập phương.

Nón lá cũng giống như các loại mũ khác có công dụng che nắng, che mưa. Nón lá có dạng hình chóp (hình nón). Đáy nón lá tròn trịa thường có đường kính khoảng 60 cm. Tuy nhiên ngày nay, nón lá không chỉ được sản xuất để đội đầu mà còn dùng làm vật trang trí nên đường kính có thể nhỏ hơn hoặc lớn hơn rất đa dạng. Nón lá thường được làm bằng lá cọ hoặc lá dừa. Bởi tính chất dai, không thấm nước và héo lụi khi gặp nắng của hai loại lá này nên người ta chọn để làm nón. Cái tên nón lá cũng xuất phát từ hình dáng cũng như nguyên liệu chính để làm nón. Ngoài ra, nguyên liệu làm nón còn có nan tre, kim chỉ, hình ảnh trang trí. Trước tiên là về lá làm nón. Lá dừa hoặc lá cọ sẽ được chọn lựa kĩ càng. Thường nón sẽ được làm bằng lá cọ nhiều hơn. Vì lá cọ mềm mại và dai hơn lá dừa. Lá làm nón phải đủ tiêu chuẩn xanh, nổi gân, bóng bẩy. Lá được chọn sẽ mang về đem phơi héo từ 2 đến 4 tiếng để lá mềm hơn. Khi lá mềm, lá sẽ phẳng sẵn sàng để làm thành nón. Nguyên liệu tiếp theo là nan tre. Nan tre được chế biến từ thân cây tre, có độ mềm dẻo dễ uốn nắn. Nan tre thường được vót tròn đường kính khoảng 1 đến 2 cm. Nan tre là vật dụng dễ kiếm ở Việt Nam. Bởi nó được là từ cây tre, một loài cây mọc thành bụi, có tốc độ tăng trưởng và phát triển rất nhanh. Nguyên liệu cuối cùng là kim chỉ màu và hình ảnh trang trí, sơn dầu.

Sau khi đã chuẩn bị được đầy đủ các loại nguyên liệu, người làm nón sẽ bắt đầu vào các giai đoạn các bước làm thành sản phẩm – nón lá. Trước tiên là khâu làm vành nón. Đây là khâu vô cùng quan trọng để tạo ra sự chắc chắn cũng như bền đẹp của chiếc nón. Vành nón được làm bằng nan tre, người làm nón sẽ dùng sự khéo léo của mình để uốn nan tre đó thành những vòng tròn có đường đính từ nhỏ đến lớn sao cho tạo thành một hình chóp vừa vặn. Khung nón đã xong. Tiếp theo là giai đoạn chằm nón. Giai đoạn này, người làm nón sẽ dùng một loại dây có chất liệu đặc biệt, có độ dai và màu trong suốt được làm từ nilon. Nhờ loại dây chỉ đặc biệt này mà khung nón và lá nón được gắn kết với nhau. Người làm nón sẽ lấy từng lớp lá từng lớp để khâu tỉ mỉ chúng chắc chắn vào khung nón. Làm xong giai đoạn chằm nón này có thể được coi như đã thành sản phẩm hoàn chỉnh. Bước cuối cùng là trang trí và hoàn tất sản phẩm. Trang trí nón lá có rất nhiều cách. Thường họ sẽ thểu hình ảnh hoặc chữ nên trên bề mặt nón hoặc bên trong nón có khâu kèm các hình ảnh thần tượng hoặc diễn viên. Ngày nay, trang trí nón rất đa dạng và không giới hạn, đảm bảo yêu cầu thẩm mĩ của người tiêu dùng. Cuối cùng sau khi trang trí xong, họ sẽ phết một lớp sơn dầu để tạo độ bóng cho bề mặt ngoài nón và để bảo quản độ bền màu cũng như độ mềm của lá nón khi sử dụng. Bây giờ, người dùng chỉ cần chọn quai nón theo sở thích là có thể dùng được. Dây quai nón thường là một dải lụa hoặc vải tổng hợp, chiều dài từ 70 đến 80 cm. Dây quai nón có tác dụng giữ chắc nón trên đầu khi sử dụng hoặc để treo nón lên cao khi không sử dụng đến. Giúp việc sử dụng và bảo quản nón dễ dàng hơn.

Ngày nay, nón lá được biết đến không chỉ là vật dụng không thể thiếu của các chị em, các bà các mẹ mà còn trở thành món quà lưu niệm của du khách, một đạo cụ trên sân khấu nghệ thuật. Nón lá đã trở thành một điểm đẹp nền văn hóa của nước ta. Là người Việt, không ai là không biết đến hình ảnh nón Huế nghiêng nghiêng của người con gái. Một biểu tượng dịu dàng, duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam – nón lá.

Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn (ảnh 2)

Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 18

Chiếc nón lá Việt Nam là một công cụ che nắng, che mưa, làm quạt, khi còn để che giấu gương mặt, nụ cười hay tạo thêm nét duyên dáng cho người phụ nữ Việt Nam.

Vật liệu để làm nên cái nón là lá cọ, chỉ tơ, móc, tre làm khung. Nón lá có cấu tạo đơn giản nhưng cũng đòi hỏi một sự khéo léo của người thợ. Nón có hình chóp đều, thành được bao bọc bởi những chiếc vành uốn quanh thành nhiều lớp. Vành nón làm bằng tre, vót tròn như bộ khung nâng đỡ cái hình hài duyên dáng của nón. Ở phần đáy nón có một chiếc vành uốn quanh, cứng cáp hơn những chiếc vành nón ở trên. Vanh nón, vành nón cứng hay giòn sẽ quyết định đến độ cứng cáp, bền lâu của chiếc nón.

Nhưng bộ phận quan trọng nhất của chiếc nón lại là hai lớp lá cọ - vật liệu chính để hình thành nên một chiếc nón. Lá cọ phải là lá non, phơi thật trắng. Lót giữa hai lớp lá cọ là lớp mo nang làm cốt, được phơi khô, lấy từ mo tre, mo nứa. Tất cả các vật liệu làm nên nón đều phải không thấm nước, dễ róc nước để chống chịu với những cơn mưa vùi dập, những ngày nắng oi ả thất thường.

Để tăng thêm nét duyên dáng, đồng thời giữ chặt nón vào đầu người đeo, người ta làm ra chiếc quai bằng lụa mềm gắn cùng hai chiếc nhôi đính vào mặt trong của chiếc nón. Nhôi nón được đan bằng những sợi chỉ tơ bền, đẹp. Người ta cũng có thể trang trí những hoa văn đậm nét dân tộc vào bên trong chiếc nón hoặc quét một lớp quang dầu thông bóng bẩy lên mặt ngoài chiếc nón.

Quy trình làm nón không khó lắm: trước hết, phơi lá nón (lá cọ non) ra trời nắng cho thật trắng, để rải trên nền đất cho mềm, rồi rẽ cho lá rộng bản. Sau đó, là lá trên một vật nung nóng cho phẳng. Vanh nón được vuốt tròn đều đặn. Việc cuối cùng là thắt và khâu khi lá đã đặt lên lớp vành khuôn. Sợi móc len theo mũi kim qua 16 lớp vòng bằng cột tre để hoàn chỉnh sản phẩm. Nón khâu xong có thể hơ trên hơ lửa cho thêm trắng và tránh bị mốc. Quy trình làm nón là vậy. Nói là: không khó lắm, nhưng thực ra đó là những tinh hoa, những đúc kết bao đời nay của nghệ thuật làm nón.

Ở Việt Nam, có nhiều vùng nổi tiếng về nghề làm nón: nón làng Chuông (Hà Tây cũ) vừa bền vừa đẹp; ở Huế có nón bài thơ thanh mảnh nhẹ nhàng; nón Quảng Bình, Nam Định cũng có những nét đẹp riêng.

Chiếc nón lá rất gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân Việt Nam. Nó che mưa, che nắng, là một món quà kỷ niệm đầy ý vị độc đáo, sâu sắc. Nó làm thêm phần duyên dáng cho các thiếu nữ Việt Nam trong các dịp hội hè. Còn gì đẹp hơn một người thiếu nữ mặc chiếc áo dài thướt tha, đội chiếc nón lá, bước đi uyển chuyển trong bài múa nón.

Chiếc nón đã thực sự trở thành một biểu tượng sinh động của người phụ nữ Việt dịu dàng, nết na, duyên dáng: anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.

Ngày nay, trong cuộc sống hiện đại, chiếc nón đã không còn vị trí, vai trò như trước. Những chiếc mũ xinh xinh, những bộ quần áo mưa sang trọng đã thay dần chiếc nón bình dị xưa. Nhưng trong ý thức mỗi người dân Việt, hình ảnh chiếc nón cùng những nỗi nhọc nhằn, những mũi chỉ khâu tinh tế sẽ mãi mãi trường tồn vĩnh cửu. Nó mãi mãi là một nét đẹp trong nền văn hoá độc đáo của đất nước Việt Nam tươi đẹp.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 19

Chiếc nón lá xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỉ thứ 13, tức là vào đời nhà Trần. Từ đó đến nay, nón luôn gắn bó với người dân Việt Nam như là hình với bóng. Không phải là đồ vật phân biệt giới tính, tuổi tác và địa vị nón luôn đi theo như người bạn đường che nắng che mưa cho mọi hành trình. Phải chăng như vậy mà nón đã từ lâu trở thành biểu tượng cho đất nước con người Việt Nam?

Trước hết, nón là một đồ dùng rất “thực dụng”. Nó dùng để che mưa nắng. Nón chóp nhọn đầu, nón thúng rộng vành, nón ba tầm như nón thúng nhưng mảnh dẻ hơn tất cả đều để che chắn che mưa. Dù nón có nhiều loại, song nét đặc thù chung của nó là rộng vành (để chống nóng) và có mái dốc (để thoát nước nhanh, che mưa). Ngoài chức năng ứng phó với môi trường tự nhiên, chiếc nón còn hướng tới mục đích làm đẹp, làm duyên cho người phụ nữ và phù hợp với cảm quan thẩm mỹ của người Việt: đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, lúm đồng tiền, những sợi tóc mai, cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, kín đáo mà không kém phần quyến rũ.

Người ta đội nón lá làm đồng, đi chợ, chơi hội. Tiễn cô gái về nhà chồng, bà mẹ đặt vào tay con chiếc nón thay cho bao nhiêu lời nhắn gửi yêu thương. Chiếc nón gợi nguồn cảm hứng cho thơ, cho nhạc. Đã có hẳn một bài về hát về nón: “Nón bài thơ, em đội nón bài thơ, đi đón ngày hội mở”. Giữa những kênh rạch, sông nước chằng chịt ở miệt vườn Nam Bộ, ai đó đã phải ngẩn ngơ vì: “Nón lá đội nghiêng tóc dài em gái xõa”. Chiếc nón còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần: “Quê hương là cầu tre nhỏ/Mẹ về nón lá nghiêng che…”. Trong những năm chiến tranh, tiễn người yêu ra chiến trường, các cô gái thường đội nón với cái quai màu tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi đã hơn mọi lời thề non, hẹn biển, làm yên lòng người ra trận.

Nón lá thường được đan bằng các loại lá, cây khác nhau như lá cọ, rơm, tre, lá cối, lá hồ, lá du quy diệp chuyên làm nón v.v. Có hoặc không có dây đeo làm bằng vải mềm hoặc lụa để giữ trên cổ.

Nón lá thường có hình chóp nhọn hay hơi tù, tuy vẫn có một số loại nón rộng bản và làm phẳng đỉnh. Nón lá có nhiều loại như nón ngựa hay nón Gò Găng (sản xuất ở Bình Định, làm bằng lá dứa, thường dùng khi đội đầu cưỡi ngựa), nón quai thao (người miền Bắc Việt Nam thường dùng khi lễ hội), nón bài thơ (ở Huế, là thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hoặc một vài câu thơ), nón dấu (nón có chóp nhọn của lính thú thời phong kiến); nón rơm (nón làm bằng cọng rơm ép cứng); nón cời (loại nón xé te tua ở viền); nón gõ (nón làm bằng tre, ghép cho lính thời phong kiến); nón lá sen (còn gọi là nón liên diệp); nón thúng (nón là tròn bầu giống cái thúng, thành ngữ “nón thúng quai thao”); nón khua (nón của người hầu các quan lại thời phong kiến); nón chảo (nón mo tròn trên đầu như cái chảo úp, nay ở Thái Lan còn dùng).v.v.

Đối với người phụ nữ Huế chiếc nón bài thơ luôn là một người bạn đồng hành. Trong cuộc sống thường nhật, chiếc nón đối với người phụ nữ Huế rất thân thiết. Chiếc nón không chỉ có chức năng che mưa che nắng, mà người phụ nữ Huế còn dùng nó để làm đồ đựng, phương tiện quạt mát và cao hơn hết là chức năng làm đẹp, góp phần làm tăng thêm nét duyên dáng phụ nữ Huế.

Giờ đây chiếc nón lá được phổ biến khắp đất Việt Nam là nét đặc trưng văn hóa riêng của đất nước. Khi người ngoại quốc nào đến Việt Nam cũng muốn có trong hành lí của mình vài chiếc nón làm quà khi về nước.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 20

Nghĩ đến Việt Nam, mọi người sẽ nghĩ đến những nét đẹp văn hoá khác nhau. Nón lá Việt Nam là một trong những nét đẹp cổ truyền, biểu tượng cho văn hoá của người dân Việt Nam.

Về lịch sử nguồn gốc của nón lá có lẽ khó có thể chắc chắn được nón lá ra đời vào thời kì nào. Bởi từ xa xưa trong những câu thơ dân gian hình ảnh nón lá đã xuất hiện:

"Dáng tròn vành vạnh vốn không hư,

Che chở bao la khắp bốn bờ...''

Cũng có nhiều tài liệu ghi chép, nón lá xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỉ thứ XIII đời nhà Trần, cách đây khoảng 3000 năm. Nhưng theo nhiều thống kê lại có những ghi chép khác. Như vậy có thể khẳng định, nón lá có mặt ở Việt Nam từ rất lâu đời.

Theo thông thường, chiếc nón khi ra đời sẽ được đặt tên theo vật liệu tạo ra nó. Như nón lá, nón rơm, nón đệm, nón dừa. Chất liệu làm nên chiếc nón lá rất phong phú nhưng lại rất gần gũi với người dân Việt Nam.

Nón lá có dạng hình chóp, vành rộng, tròn, phẳng như cái mâm. Ở vành ngoài cùng có đường viền quanh làm cho nón có hình dáng giống như cái chiêng. Giữa lòng có đính một vòng nhỏ đan bằng giang vừa đủ ôm khít đầu người đội. Mỗi loại nón lại có kích thước rộng tròn khác nhau. Nón ba tầm có vành rộng nhất. Nón đấu là loại nhỏ nhất và đường viền thành vòng quanh cũng thấp nhất. Hay nón Nghệ, rộng trên 80cm, sâu 10cm.

Để tạo nên được một chiếc nón hoàn hảo cần rất nhiều vật dụng cũng như công sức và thời gian. Vật dụng làm nón gồm: lá, chỉ, khung nón. Lá thì lấy từ hai loại cây giống như lá kè, có sứa nhỏ, mọc ở những vùng đồi núi hoặc có thể dùng lá cọ, rơm, tre, lá cối, lá hồ. Sợi chỉ dùng để khâu nón là sợi dây rất dài lấy từ bẹ cây móc. Mỗi chiếc nón có hoặc không có dây đeo làm bằng vải mềm hoặc nhung, lụa để giữ trên cổ. Khung nón làm bằng tre, loại tre cật Tây Ninh, khung hình chóp. Khung và bộ vành vơi 16 chiếc vòng lớn nhỏ được chuốt nhỏ nhắn, tròn và khéo, cân xứng nghệ thuật và nhẹ nhàng. Sau khi chọn được vật liệu tốt, người thợ phải mang tàu lá nón đi là bằng cách dùng một miếng sắt được đốt nóng, đặt lá lên dùng nắm giẻ vuốt cho thẳng. Lửa phải vừa độ, không nóng quá, không nguội quá. Tiếp đó, xếp lá nón lên khung và khâu lại cẩn thận, tỉ mỉ. Thời gian làm nên chiếc lá rất lâu vì phải cẩn thận từng khâu. Hoàn thành xong chiếc lá, người thợ sẽ quét lên đó một lớp dầu bóng để chiếc nón không bị mốc và bền lâu. Người thợ sau khi làm xong thường sẽ trang trí lên nón những bài thơ hoặc những hình vẽ thêu chỉ đẹp mắt.

Nón lá đi vào đời sống nhân dân ta lâu đời bởi vậy được phân chia thành nhiều loại. Nổi tiếng trong đó phải kể đến nón quai thao, nón Huế, nón Ba Đồn. Mỗi loại mang một vẻ đẹp của vùng miền trên đất nước Việt Nam.

Chiếc nón còn gắn liền với những người dân lao động, trở thành chiếc mũ đội đầu giản dị. Hơn thế, tà áo dài của người phụ nữ Việt cùng chiếc nón đã trở thành nét đẹp văn hoá vô cùng tự hào của con người đất Việt.

Xã hội dù có thay đổi. Cuộc sống có ngày một phát triển. Những nền văn hoá có thể giao thoa nhưng chiếc nón lá không bao giờ mất đi. Nó đã là một biểu tượng của cuộc sống, văn hoá và con người Việt Nam.


Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn - Mẫu số 21

Trên đất nước Việt Nam có khoảng trên năm mươi dân tộc được chia ra nhiều vùng miền khác nhau. Nhưng có ba khu vực chính: Bắc – Trung – Nam. Ở mỗi miền có phong tục tập quán riêng. Nếu nói về trang phục thì chiếc áo tứ thân là vật dụng đi kèm là nón quai thao sẽ là đại diện cho người Bắc. Còn ở miền Trung và miền Nam thì có áo dài nói chung áo bà ba nói riêng và người bạn đồng hành với chúng không ai khác chính là chiếc nón lá thân quen. Nó làm chiếc áo dài hay áo bà ba thêm phần duyên dáng và dịu dàng, tôn thêm nét đẹp cho người phụ nữ Việt.

Chiếc nón lá là một nhân tố của lịch sử lâu đời. Tiền nhân của nón lá được chạm khắc trên chiếc trống đồng Ngọc Lữ, thạp đồng Đào Thịnh từ khoảng 2500 – 3000 trống đồng năm trước công nguyên. Trải qua biết bao thời kì chống giặc ngoại xâm, nghề chằm nón vẫn được duy trì và tồn tại cho đến nay. Và hiện nay các làng làm nghề chằm nón như làng Đồng Di (Phú Vang), Dạ Lê (Hương Thủy) và ở Phủ Cam (Huế) là làng nón đặc biệt nhất, những làng nghề này đã tạo ra các sản phẩm công phu và nó cũng là một trong những điểm thu hút khách du lịch.

Một chiếc nón lá đẹp phải trải qua rất nhiều công đoạn. Trước tiên là khâu chọn lá, phơi lá, chọn chỉ đến mức tinh xảo trong từng mũi kim. Lá làm nón có thể dùng lá dừa hay lá cọ.

Lá dừa: để có được lá dừa thì phải mua từ trong Nam. Lá được vận chuyển và được làm trước khi chuyển đến nơi. Sau đó, chọn lọc lá để xử lí với lưu huỳnh nhằm đảm bảo được độ bền về thời gian và màu sắc của lá. Dẫu việc chọn lá có công phu nhưng chiếc nón làm ra cũng không sánh bằng nón được làm từ lá cọ.

Lá cọ: để khoác lên cho nón một chiếc áo với chất liệu tốt, người may phải công phu hơn từ việc chọn lá cho đến việc may và khâu. Những chiếc lá cọ phải có những yếu tố sau: lá non vừa độ, gân lá phải xanh, màu lá cũng trắng xanh. Nếu gân và thân lá đều trắng thì chiếc nón làm ra sẽ không được đẹp.

Một chiếc nón đạt đầy đủ tiêu chuẩn là phải có màu trắng xanh với những gân lá màu xanh nhẹ, mặt phải bóng, khi dán lên nón thì màu của gân nổi lên bề mặt thì mới đẹp mặt. Để đạt được điều đó, phải làm đúng theo các quy trình một cách tuân thủ.

Sấy khô phải đúng kĩ thuật, sấy trên bếp than (đối với lá cọ thì không phơi nắng). Sau đó thì phơi sương từ 2 đến 4 giờ cho lá mềm ra. Rồi dùng một búi vải và một miếng gang đặt trên bếp than có độ nóng vừa phải để ủi sao cho từng chiếc lá được phẳng. Mỗi chiếc lá phải được chọn lựa kĩ càng và cắt với cùng độ dài là 50cm (lá cọ).

Với cây mắc sắt, những người thợ làm nón (thường là đàn ông) chuốt từng nan tre sao cho tròn đều và có đường kính rất nhỏ, thường chỉ lớn hơn que tăm một chút. Sau đó uốn nan tre này thành những vòng tròn từ lớn đến bé và đều được bóng bẩy. Mỗi cái nón sẽ có 16 nan tre đã được uốn vòng như thế này. Những vòng ấy sẽ được đặt vào một khung bằng gỗ hình chóp theo vị trí từ dưới lên từ lớn đến bé. Sau đó người thợ sẽ xếp lá lên khung, người xếp lá phải khéo và đều tay để những chiếc lá không bị chồng lên nhau hoặc xô lệch.

Kể về quá trình làm nón mà không nhắc đến nghệ thuật làm nón bài thơ ở Huế thì thật thiếu sót. Đặt biệt nón bài thơ của xứ Huế rất mỏng vì chỉ có hai lớp lá với lớp lá thứ nhất chỉ gồm hai mươi lá, còn lớp ngoài chỉ có ba mươi lá và lớp bài thơ thì được chèn ở giữa. Khi xây lá lợp lá, người làm phải thật sự khéo léo sao cho khi chêm lá sẽ không làm cho lá bị chồng lên nhau hay bị xô lệch, như vậy thì chiếc nón lá của chúng ta sẽ có được độ thanh và mỏng.

Khi soi nón dưới ánh nắng, người ta sẽ thấy được bài thơ, hay nhìn rõ được chiếc cầu Tràng Tiền hoặc chùa Thiên Mụ. Chính những chi tiết đó đã tạo được nét đặc sắc riêng của nón bài thơ ở xứ Huế. Khi đội nón bài thơ người đội nó chắc hẳn hãnh diện lắm vì đã mang trên mình những danh lam thắng cảnh hay một bài thơ mang đậm sắc Việt.

Sau khi xếp lá cho đều và ngay ngắn lên vành, người ta bắt đầu chằm nón. Nón được chằm bằng những sợi ni lông dẻo, dai và săn chắc có màu trắng trong suốt. Các nón lá không được xộc xệch, đường kim chỉ phải đều. Khi nón lá được chằm hoàn tất người ta đính thêm cho chóp nón một cái "xoài" được làm bằng chỉ bóng láng để làm duyên cho nón. Sau khi cho nón một điểm nhấn, thì người thợ sẽ phủ lên nón lớp dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để nón vừa đẹp vừa bền. Ở hai vòng tròn lớn bằng nan tre phần dưới của hình chóp, khoảng nan thứ ba và thứ tư, người thợ sẽ dùng chỉ đôi kết đối xứng hai bên để buộc quai.

Quai nón thường được làm bằng lục, the, nhung, với màu sắc tươi tắn như tím, hồng đào, xanh thiên lí, càng làm cho nón thêm phần xinh xắn và càng làm tăng độ duyên dáng cho người đội nón. Chiếc nón lá cũng giống như người phụ nữ Việt Nam, không chỉ đẹp ở từng chi tiết mà còn đẹp ở cách thể hiện ở phần dáng nón. Những người thợ đã gửi gắm vào từng "đứa con những hình ảnh mang nét truyền thống văn hóa dân tộc.

Từ Bắc vào Nam, từ làng Chuông ở Tây Hồ đến Ba Đồn, những chiếc nón lá trải đi khắp các nẻo đường và trở nên thân quen trong đời sống thường nhật của người phụ nữ. Chiếc nón không chỉ là vật dụng thân thiết, mà còn là người bạn thủy chung với người lao động đội nắng dầm mưa, đội nón ra đồng, đội nón đi chợ, nón còn là những chiếc quạt xua đi những mệt mỏi, mồ hôi dưới nắng hè gay gắt mà còn làm tăng nét duyên và tăng thêm nét nữ tính của người phụ nữ.

Vào mỗi buổi tan trường, hình ảnh những cô nữ sinh với tà áo dài trắng tinh khôi, nghiêng nghiêng dưới vành nón lá là lúm đồng tiền làm duyên đã làm say lòng, là cảm hứng nghệ thuật của bao văn nhân, nghệ sĩ. Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái dưới bộ áo dài duyên dàng thể hiện nét dịu dàng, mềm mại kín đáo của người phụ nữ Việt Nam đã nhiều lần xuất hiện và đều nhận được những tràng pháo tay tán thưởng của khán giả.

Muốn nón lá được bền chỉ nên đội dưới nắng, không nên đi trong mưa. Sau khi dùng nên cất vào chỗ bóng râm, không phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón giòn và ố vàng làm mất tính thẩm mĩ và giảm tuổi thọ của nón. Nón lá là một những bề mặt của đất nước Việt Nam ta, vì thế hãy giữ gìn nó thật kĩ tránh làm hỏng nón. Hãy yêu quý cái nét truyền thống lâu đời đó, nón lá sẽ là một người bạn luôn sát cánh cùng chúng ta dẫu có nắng mưa gian khổ.

-------------------------------------

Trên đây, Toploigiai đã cùng các bạn Thuyết minh về chiếc nón lá ngắn gọn. Hi vọng thông qua bài này, các bạn sẽ có thêm cho mình nhiều kiến thức và bổ sung thêm những kĩ năng về làm văn thuyết minh nhé!

icon-date
Xuất bản : 16/11/2022 - Cập nhật : 01/07/2023