logo

Thân bài Bình Ngô đại cáo

Tổng hợp các dạng Thân bài Bình Ngô đại cáo ngắn gọn, hay nhất. Hướng dẫn Cách viết thân bài cho các đề bài khác nhau trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo.


Thân bài Bình Ngô đại cáo - Bài mẫu 1

        Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự tài ba, đóng góp quan trọng cho việc thành lập nhà Lê mà ông còn là một nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Ông để lại tiếng thơm cho đời bởi những tư tưởng nhân nghĩa ông gửi gắm trong từng tác phẩm của mình. Tiêu biểu trong số ấy là “Bình Ngô Đại Cáo” ra đời vào mùa xuân năm 1482, tựa một bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc. Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay vua Lê Lợi thảo bản cáo này để tuyên bố sự thắng lợi của quân và dân ta. Nhan đề tác phẩm có nghĩa là: bài cáo quan trọng tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô (tên gọi hàm ý khinh bỉ thay cho giặc Minh).

        Trước hết, Nguyễn Trãi đặt ra tiền đề lí luận cho những lí lẽ của mình. Ông đi vào khẳng định cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Nếu trong Nho giáo, nhân nghĩa là mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí thì đến Nguyễn Trãi, ông đã tiếp thu và mở rộng phạm vi nhân nghĩa ra:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

        Nhân nghĩa không chỉ là việc làm cho dân hạnh phúc (“yên dân”) mà còn cả việc trừ bạo tàn, diệt những kẻ làm dân khốn đốn (“trừ bạo”). Đây hoàn toàn là một lời khẳng định đanh thép về bản chất của ta và địch: ta chính nghĩa, địch phi nghĩa. Qua đó còn thể hiện sự tuyên bố về quốc gia và chủ quyền. Nguyễn Trãi đã tài tình nêu ra một loạt các dẫn chứng thuyết phục cho chân lí độc lập không thể chối cãi của dân tộc: có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục phong phú và lịch sử lâu đời,… Song hành với đó, các từ “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia” góp phần củng cố thêm sự tồn tại hiển nhiên của đất nước ta. Bản thân Nguyễn Trãi cũng có ý thức về chủ quyền độc lập cao độ khi dùng phép so sánh ngang bằng khi so sánh triều đại Đại Việt ta và triều đại Trung Hoa. Trong khi vua phương Bắc trước nay chỉ gọi vua ta là “Vương” (chức cai quản một vùng đất nhỏ) thì Nguyễn Trãi khẳng khái gọi “Đế” (danh gọi vua của một nước). Chỉ một chữ đó thôi nhưng cũng thể hiện lòng kiêu hãnh của một nước nhỏ về diện tích lãnh thổ nhưng không hề nhỏ về lòng tự tôn dân tộc. Các danh tướng của giặc lần lượt được liệt kê chỉ thêm tô đậm lời cảnh cáo về kết cục của kẻ chống lại chân lí: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô bị bắt sống,… Tư tưởng nhân nghĩa làm tiền đề cho lời tuyên bố về chủ quyền của một quốc gia và chắc chắn rằng dòng giống con Rồng cháu Tiên sẵn sàng đánh đổi tất cả để giữ vững quyền tự do độc lập đó.

         Soi chiếu lí luận vào thực tiễn, hình ảnh nhân dân ta quằn quại đau đớn dưới gót giày thống trị của giặc Minh không khỏi khiến người đời xót xa:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.

Nặng thuế khoá sạch ko đầm núi

Vét sản vật, bắt dò chim sá, chốn chốn lưới chăng

Nhìu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cặm đặt

Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ

Tan tác cả nghề canh cửi…

Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Nặng nề những nỗi phu phen

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”

        Nguyễn Trãi đã vạch trần sự bịp bợm, giả dối của những kẻ cướp nước với ý đồ xâm lược nước ta (“nhân”, “thừa cơ”) mà lại giao giảng những thứ đạo lí lừa đời. Chúng bóc lột nhân dân ta đến kiệt cùng: tàn sát người vô tội, vơ vét tài nguyên, phá hoại môi trường,… Một sự hủy diệt tàn bạo khiến trời đất cũng phải căm phẫn. Hình ảnh phóng đại “Trúc Nam Sơn ko ghi hết tội nước Đông Hải ko rửa hết mùi” với sự ví von tội ác của giặc trước sự vô cùng vô tận của tự nhiên thêm phần khẳng định tội ác không thể nào gột rửa của kẻ thù. Dường như trong lồng ngực chúng không còn là trái tim, là dòng máu của một con người mà là khối sắt không có cảm giác. Chúng như những con quỷ khát máu lúc nào cũng nhe nanh đi đòi mạng những người dân lành. Câu hỏi tu từ mở ra cũng là lúc thái độ nhân dân phẫn uất đến cùng cực:

“Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần dân chịu được”

        Vũ trụ ngàn năm còn chẳng xuôi lòng trước bàn tay độc ác của quân thù nữa là người dân!

         Như một kết quả tất yếu khi nước tràn li, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã nổ ra, đòi lại hòa bình cho đất nước. Mở đầu là hình tượng vị anh hùng Lê Lợi “áo vải”:

“Ta đây

Núi Lam Sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình”

         Xuất thân từ nông dân, mang theo lòng căm thù giặc sâu sắc, con người tài trí hết  mực ấy một lòng thực hiện lí tưởng cao cả. Quên ăn, quên ngủ, cả trong mộng cũng lo việc nước nhà không thành. Những câu văn khắc sâu thêm ý chí, lòng quyết tâm vì đại nghĩa của một vị chủ tướng vừa có tâm vừa có tài, hết lòng vì đại cuộc. Giai đoạn phản công và giành thắng lợi được tác giả sử dụng phép liệt kê nhằm nhấn mạnh thêm không khí chiến đấu sôi sục và sự chiến thắng giòn giã của ta. Đối lập với chiến thắng tất yếu ấy là sự thất bại nhục nhã ê chề của giặc:

“Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.”

        Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch tiến quân ra Bắc. Giặc thì huy động tổng lực cố thủ, ta thì hừng hực quyết thắng. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:

“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.

Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng cũng đành bỏ mạng.”

        Nghệ thuật phóng đại (“thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”) khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến cũng như sự bại vong của giặc Minh. Với tấm lòng nhân nghĩa nghìn đời, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn” thì quân và dân ta chọn cách ứng xử nhân đạo với những kẻ cướp nước bại trận:

“Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh,

Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể vẫn hồn bay phách lạc.

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”

        Ta không cần phải đuổi cùng giết tận, Nguyễn Trãi thực sự thanh cao khi biết việc bây giờ không phải khiến mất thêm bất kì sinh mạng nào mà cần tập trung lo cho binh sĩ, lo cho nhân dân sau những ngày binh đao dồn dập.

         Niềm tin của nhân dân sau những ngày đại thắng thêm vững mạnh. Nguyễn Trãi thay mặt vua Lê, tuyên cáo với toàn thiên hạ rằng đất nước đã hoà bình, mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc – kỉ nguyên độc lập, tự do:

“Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới.”

        Giọng điệu vô cùng hào sảng, hình ảnh về tương lai đất nước chưa bao giờ ngời sáng hơn thế. Vua dân chung một lòng lạc quan về sự nghiệp xây dựng đất nước. Vậy là trên mọi miền quê, dưới mỗi mái nhà, độc lập, tự do và sự yên bình đã thực sự trở lại. Cuối cùng, Nguyễn Trãi không quên nhắn gửi lời biết ơn chân thành tới ông cha ta:

“Âu cũng nhờ trời đất tổ tông

Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”

         Thật vậy, ““Bình Ngô Đại Cáo” là một áng văn chương hùng tráng, với hơi văn cuồn cuộn.” Tác phẩm ngùn ngụt chí khí khẳng định chân lí độc lập của dân tộc và lời tuyên bố thành lập triều đại mới. Lòng yêu nước, chiến thuật quân sự đúng đắn đã khiến quân thù phải khiếp sợ mà lui. Nguyễn Trãi bằng ngòi bút điêu luyện của mình, đã vận dụng tài tình thể cáo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính trị và chất văn chương. Biện pháp liệt kê, phóng đại cũng được đan xen triệt để, tạo nên những hiệu quả nghệ thuật thật tuyệt vời.


Thân bài Bình Ngô đại cáo - Bài mẫu 2

        Trong dòng văn học yêu nước của dân tộc, có biết bao kiệt tác văn học đáng ngưỡng mộ và tự hào. Ta thêm tự hào về truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết qua những trang sử vẻ vang viết về cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc. Đó là Nam Quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, là Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh,...Đặc biệt, một trong số đó phải kể đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, một tác phẩm bất hủ được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

        Vào năm 1427, quân Minh do Mộc Thạnh và Liễu Thăng cầm đầu bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại và thu phục. Tháng 12 năm 1427, Vương Thông đêm quân theo sông Nhị Hà về nước theo lời ước giao hoà, được nghĩa quân Lam Sơn cấp lương thực và vật dụng để trở về. Đến năm 1428, quân giặc dẹp yên, đất nước không còn bóng quân Mình, Lê Lợi đã giao cho Nguyễn Trãi làm bài cáo để tổng kết cuộc đấu tranh, tuyên bố thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống quân Minh.

        Tác phẩm được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo. Khác với các thể loại khác, thể cáo thường được sử dụng nhiều trong các sự kiện trọng đại để thông báo cho quốc gia, dân tộc những nội dung quan trọng. Đây là loại văn hùng biện, chính luận nên ngôn từ thường sâu sắc, lý lẽ sắc bén và lập luận logic, chắc chắn. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán và lấy nhan đề là "Bình Ngô đại cáo" với ý nghĩa tuyên bố đến toàn dân về việc giặc Ngô đã được dẹp yên, đồng thời cũng thể hiện thái độ khinh bỉ trước tội ác quân giặc, những kẻ nhởn nhơ làm điều phi nghĩa cuối cùng cũng bị đánh bại.

        Bình Ngô Đại cáo được phân làm 4 phần với những nội dung lớn. Phần thứ nhất từ đầu đến "Chứng cớ còn ghi", trong phần này, tác giả đã nêu lên luận đề chính nghĩa, cốt lõi của cuộc chiến đấu là vì nhân dân, tư tưởng nhân dân chính là "việc nhân nghĩa" khi bước vào cuộc chiến. Đây là một luận đề phù hợp để mở đầu cho tác phẩm, bởi một cuộc chiến xuất phát từ lợi ích của nhân dân, vì nhân dân và dân tộc thì luôn luôn là cuộc chiến chính nghĩa, trong đó "trừ bạo", diệt giặc là công việc tiên quyết hàng đầu lúc bấy giờ. Mặt khác, cũng trong đoạn này Nguyễn Trãi đặt đất nước ta sánh ngang với các triều đại phương Bắc để khẳng định nền độc lập, sự bình đẳng của Đại Việt với các triều đại phương Bắc. Chứng minh và khẳng định hùng hồn Đại Việt gắn với nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, phong tục tập quán riêng, có lịch sử vẻ vang, hào hùng và những nhân tài, anh kiệt ngàn đời. Các yếu tố ấy là làm nên một Đại Việt vẻ vang, độc lập và hiên ngang trước thế giới, trước các triều đại phương Bắc.

        Đoạn thứ hai từ "Vừa rồi" đến "Ai bảo thần dân chịu được" Sau khi nêu luận đề chính nghĩa, Nguyễn Trãi khéo léo vạch trần việc làm "phi nghĩa" của bè lũ giặc Minh cướp nước. Bằng giọng điệu gay gắt, ngôn ngữ đanh thép, tội ác giặc Minh được phơi bày như một bản kết tội sự tàn nhẫn dành cho chúng:

"Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời."

        Sự tàn độc của chúng đạt đến tột đỉnh khi âm mưu giả dối, hành động phi nhân, vô đạo đức. Chúng giết người tàn bạo, không nương tay cho kẻ nghèo hèn, khốn khó, chúng thi hành bao chính sách tàn ác, dã man, khiến nhân dân phải chịu nỗi đau tinh thần lần nỗi đau thể xác:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ"

        Càng vạch trần sự bạo tàn của quân thù, tác giả càng bày tỏ xót xa, đau đớn đến nghẹn ngào trước những nỗi khổ đau, nhọc nhằn mà nhân dân phải chịu đựng. Tiếng thơ vừa căm phẫn, vừa xót xa.

        Đoạn thứ ba chiếm số lượng câu từ lớn nhất, từ "Ta đây núi Lam Sơn dấy nghĩa" đến "Cũng chưa thấy xưa nay" Nguyễn Trãi đã dùng trang dài nhất để tổng kết lại cuộc chiến đấu vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn vừa qua. Một lần nữa khẳng định sức mạnh dân tộc, ý chí chiến đấu mãnh liệt của dân tộc và kết quả tất yếu mà Đại Việt xứng đáng nhận được. Cuộc chiến đấu nào lúc bắt đầu cũng gặp nhiều khó khăn, nghĩa quân Lam Sơn cũng không nằm ngoài việc ấy. Ban đầu, quân ta phải đối mặt với vấn đề lương thực, vũ khí thiếu thốn, đội quân còn ít ỏi, thưa thớt, người tài, tuấn kiệt thì hiếm hoi. Nhưng "trong cái khó ló cái khôn", khó khăn ấy không làm nghĩa quân nhụt chí mà trái lại họ dùng trí tuệ để tìm ra những chiến thuật hay trong đánh trận.

" Lấy yếu thắng mạnh

Lấy ít địch nhiều"

        Cùng với người lãnh đạo anh minh, sáng suốt, nghĩa quân ngày một lớn mạnh, sức chiến đấu hăng say. Thắng lợi liên tiếp, càng đánh càng hăng, thu về bao chiến công giòn giã. Quân Minh thất bại trong nhục nhã ê chề, kẻ phi nghĩa làm sao có thể tránh khỏi hai từ "thất bại".

        Đoạn cuối bài cáo, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi tuyên bố hùng hồn về việc kết thúc chiến tranh và khẳng định nền độc lập, thái bình vững bền của dân tộc.

        Bình Ngô đại cáo chiếm trọn tình cảm của nhân dân và của người đọc qua bao thế hệ không chỉ bởi nội dung sâu sắc mà còn tài năng nghệ thuật tài tình của tác giả Nguyễn Trãi. Bài cáo giàu sức thuyết phục bởi ngôn từ sắc bén, lí lẽ chính xác, lập luận đúng đắn. Các hình ảnh, hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi, lối viết giàu cảm xúc. Các thủ pháp liệt kê, so sánh, đối lập,....được vận dụng linh hoạt, phù hợp. Giọng điệu thơ thay đổi linh hoạt, khi căm phẫn trước sự man rợ quân thù, khi xót xa, đồng cảm trước khổ đau nhân dân, khi mãnh liệt sục sôi trong tái hiện cuộc chiến đấu, khi lại hùng hồn, trình trọng để tuyên bố hòa bình, dẹp yên bóng giặc.


Thân bài Bình Ngô đại cáo - Bài mẫu 3

        Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định "Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời". Những kiệt tác văn học ra đời không chỉ mang trong mình ý nghĩa văn chương mà còn mang cả tầm vóc lịch sử. "Đại cáo Bình Ngô" chính là một kiệt tác như thế. Không những là áng "thiên cổ hùng văn" của Nguyễn Trãi, "Đại cáo Bình Ngô" còn có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập.

        Tuyên ngôn độc lập được hiểu là văn bản dùng để tuyên bố, khẳng định nền độc lập, chủ quyền của một quốc gia, đặc biệt là sau khi quốc gia ấy vừa giành chiến thắng trong cuộc chống sự xâm lược của ngoại bang. Tại sao có thể khẳng định Đại cáo Bình Ngô là một bản tuyên ngôn độc lập? Điều kiện đầu tiên để một tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập là hoàn cảnh ra đời phải là trong hoặc sau một cuộc chiến. Đồng thời đảm bảo yếu tố khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc, tuyên bố thắng lợi và tuyên bố hòa bình. Dẫn chứng và lý lẽ phải sắc bén, hùng hồn và hoàn toàn xác thực.

        Đại cáo Bình Ngô đáp ứng đủ được những yêu cầu trên. Trước hết, về hoàn cảnh ra đời. Tác phẩm ra đời gắn với mốc lịch sử vô cùng trọng đại của dân tộc. Mùa xuân năm 1428, sau chiến thắng giặc Minh, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài cáo để thông báo tới toàn thể nhân dân về chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ròng rã hai mươi năm chiến tranh thảm khốc và ách đô hộ của quân giặc, chúng ta đã chiến thắng và giành lại nền độc lập dân tộc, lập lại nền hòa bình. Đại cáo Bình Ngô khi ấy chính là khúc khải hoàn ca, mở ra kỉ nguyên mới của dân tộc, kỉ nguyên hoàn toàn độc lập và tự do, trở thành khúc tráng ca của lịch sử.

Về nội dung, bài cáo là lời khẳng định đanh thép về độc lập chủ quyền, về chiến thắng Lam Sơn hào hùng và nền hòa bình dân tộc. Ngay từ những câu thơ mở đầu, Nguyễn Trãi đã nêu cao tư tưởng nhân nghĩa. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài cáo, cũng là sự khẳng định chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hào hùng:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

        Theo tư tưởng Nho gia, Nguyễn Trãi cho rằng nhân nghĩa là yên dân, là làm sao cho nhân dân có được ấm no, yên ổn và hạnh phúc. Để làm được việc này, trong hoàn cảnh giặc ngoại xâm đô hộ thì phải trừ bạo. Cụ thể trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ là loại trừ giặc Minh xâm lược. Làm được cả hai việc ấy mới là nhân nghĩa chân chính. Độc lập dân tộc có được phụ thuộc rất lớn vào nhân dân. Nhân dân là người bao đời cố gắng gây dựng và bảo vệ nền độc lập. Hàng nghìn năm mồ hôi rơi, xương máu đổ, đồng cam cộng khổ mới tạo nên độc lập dân tộc.

        Nguyễn Trãi nêu lên một tư tưởng đầy nhân văn để từ đó, đi đến khẳng định chân lý độc lập của dân tộc:

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có"

        Bằng giọng điệu hào hùng, khí thế, Nguyễn Trãi liên tiếp liệt kê hàng loạt yếu tố để xác lập trọn vẹn nền độc lập dân tộc. Đó là "nền văn hiến", "núi sông bờ cõi", "phong tục", "lịch sử" và "hào kiệt". Nếu như trong "Nam Quốc Sơn Hà", Lý Thường Kiệt đưa ra phương diện lãnh thổ ở sách trời. Thì ở Đại cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi lại lựa chọn những phương diện cụ thể và có bằng chứng lịch sử không thể chối cãi. Các cụm từ "từ trước", "vốn ", "đã lâu", "đã chia", "bao đời", "cũng khác" liên tiếp dồn dập nhấn mạnh tầm vóc lịch sử lâu đời của dân tộc Đại Việt. Nền độc lập và chủ quyền của dân tộc đã tồn tại từ rất lâu, hoàn toàn rạch ròi và khác biệt, không thể nhầm lẫn với bất kỳ quốc gia nào khác.

        Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi cũng điểm danh một loạt các triều đại của nước ta "Triệu, Đinh, Lí, Trần" song song với các triều đại phương bắc như "Hán, Đường, Tống, Nguyên". Lịch sử ghi lại, khi Trung Quốc xưng hoàng đế, các nước xung quanh chỉ có thể xưng vương. Thế nhưng, từ đời nhà Ngô nước ta, Ngô Quyền cũng đã xưng hoàng đế. "Mỗi bên xưng đế một phương", dân tộc ta đứng ngang hàng, không hề thua kém.

        Với những yếu tố đó, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập và khẳng định vị thế dân tộc. Đại cáo Bình Ngô vì lẽ đó mở màn đầy đanh thép.

        Nền độc lập dân tộc với lý lẽ và dẫn chứng xác thực, trở nên vô cùng thiêng liêng và "bất khả xâm phạm". Chân lý chủ quyền dân tộc vang lên đầy khí thế và tự hào. Đồng thời cũng trở thành cơ sở pháp lý để Nguyễn Trãi lên án những kẻ bạo ngược đã cả gan xâm phạm chủ quyền nước ta:

"Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bản thần nhân chịu được."

        "Đại cáo Bình Ngô" đã phơi bày toàn bộ tội ác của giặc Minh xâm lược. Suốt hai mươi năm trời, nhân dân ta sống trong lầm than, đau khổ bởi những âm mưu tàn độc, những hành động man rợ, trắng trợn vô nhân tính. Kể bao nhiêu cũng không hết tội ác tày trời.

        Nguyễn Trãi hùng hồn tố cáo tội ác của giặc Minh tạo nên một bản án đanh thép với kẻ thù. Bài cáo khẳng định hành động của địch là phi nghĩa, cuộc chiến của ta là chính nghĩa, gây ra sự đồng cảm và tăng tính thuyết phục cho bản tuyên ngôn. Vị tướng sĩ tài ba của dân tộc viết lên những điều đó trong căm hờn, uất nghẹn trào dâng, khiến lòng người sục sôi phẫn nộ.

        Thế nhưng, đau thương vẫn không cản bước được dân tộc anh hùng. Cả dân tộc đồng lòng, chung tay cùng đứng dậy, làm nên chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

"Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào."

        Dù giai đoạn đầu có nhiều khó khăn song cuối cùng thắng lợi vẫn thuộc về dân tộc ta. Tuyên bố về thắng lợi, bài cáo đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc vô cùng sâu sắc. Đồng thời cũng nêu cao tính chính nghĩa của cuộc chiến này. Chiến thắng giặc Minh năm ấy chính là sự trừng phạt thấu tình đạt lí những kẻ bạo ngược, vi phạm chủ quyền dân tộc ta.

        Khép lại bản "tuyên ngôn", Đại cáo Bình Ngô đi đến sự tuyên bố về nền hòa bình dân tộc:

"Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới.

Kiền khôn bĩ rồi lại thái,

Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Muôn thuở nền thái bình vững chắc,

Ngàn thu vết nhục nhã sạch lầu"

        Đó là "trái ngọt hoa thơm" của cuộc đấu tranh đầy khó khăn, gian khổ. Từng câu từng chữ vút cao, vang dội, tuyên bố nền hòa bình "vững bền, đổi mới, vững chắc". Hình ảnh "xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt" giống như tái hiện khung cảnh thái bình tuyệt đẹp. Đặc biệt trong đó còn chứa đựng sự biết ơn "trời đất tổ tiên khôn thiêng ngầm giúp" và đạo lý uống nước nhớ nguồn.

        Bên cạnh yếu tố về nội dung, Đại cáo Bình Ngô còn được coi là bản tuyên ngôn độc lập về khía cạnh nghệ thuật. Bài cáo được viết theo thể văn biền ngẫu, lập luận chặt chẽ, đanh thép đầy thuyết phục. Đi từ cơ sở lí luận của tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về độc lập chủ quyền, đến sự phơi bày tội ác của giặc và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn rồi tuyên bố nền hòa bình. Lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục kết hợp với giọng điệu hào hùng, đanh thép, hùng tráng. Các biện pháp nghệ thuật khéo léo cùng những câu văn dài ngắn, biến hóa linh hoạt. Bài cáo đã khẳng định độc lập chủ quyền, chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và nền hòa bình dân tộc. Đồng thời cũng nêu cao tinh thần yêu nước cùng tầm vóc tư tưởng và tài năng của Nguyễn Trãi.


Thân bài Bình Ngô đại cáo - Bài mẫu 4

        Được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước Việt Nam, "Bình Ngô Đại Cáo" đã thực hiện sứ mệnh cao cả của mình là tuyên bố một cách hùng hồn về chủ quyền của đất nước ta thời bấy giờ, đồng thời tố cáo tội ác dã man của quân giặc phương Bắc, khẳng chiến công oanh liệt mà dân tộc Đại Việt đã đạt được. Kết thúc bài cáo, thay lời của chủ tướng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã trịnh trọng truyền đi khắp muôn nơi tin vui về sự độc lập của đất nước và niềm tin về một tương lai tương sáng dành cho dân tộc Đại Việt.

"Xã tắc từ nay vững bền

Giang sơn từ nay đổi mới

Kiền khôn bĩ thái rồi lai

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

Muôn thuở nền thái bình vững chãi"

        Chỉ với sáu câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Trãi đã làm cho lời tuyên ngôn độc lập trở nên đanh thép hơn bao giờ hết. Trong những câu thơ ấy, không chỉ toát lên cái không khí vui tươi, phấn khởi trước chiến thắng mà còn bày tỏ cả cảm hứng độc lập rất sâu sắc nữa.

        Cảm hứng độc lập ấy toát lên từ trong những lời thơ khẳng định của Nguyễn Trãi, ông khẳng định rằng:

"Đất nước từ nay vững bền

Giang sơn từ nay đổi mới"

        Nền độc lập được gây dựng nên từ xương máu của nhân dân thế nên nền độc lập chắc chắn sẽ là một nền độc lập lâu bền. Một đất nước mới đã được thành lập, một triều đại mới của chính dân tộc Đại Việt sau bao tháng năm nội chiến, ngoại chiến đã được mở ra. Mặc dù để có được nền độc lập ấy, chúng ta đã phải đổ máu, nước mắt, cùng với sự hi sinh, thế nhưng tất cả sau cơn "bĩ cực" - khó khăn, vất vả sẽ lại tới hồi "thái lai", tươi sáng.

        Cảm hứng về nền độc lập dân tộc không chỉ được Nguyễn Trãi thể hiện ở cuối Bình Ngô Đại Cáo mà ngay từ đầu khi bước vào bài cáo, ông đã thể hiện nó rất rõ ràng:

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác"

        Đây cũng là một lời khẳng định chủ quyền rất đanh thép của Nguyễn Trãi trước kẻ thù. Ông cho rằng, chủ quyền đất nước được định sẵn rõ ràng, "núi sông bờ cõi đã chia", không thể mặc nhiên mà xâm phạm được. Tư tưởng độc lập chủ quyền này không chỉ Nguyễn Trãi mà ngay từ thời Lý Thường Kiệt, ông đã luôn khẳng định:

"Sông núi nước Nam vua Nam ở

Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư"

        Có thể nói, cái tư tưởng, cảm hứng về nền độc lập dân tộc đã khởi nguồn từ rất lâu đời và đến Bình Ngô đại cáo, nó lại được khẳng định chắc chắn một lần nữa thông qua bản Tuyên ngôn về chủ quyền của Nguyễn Trãi.

        Không chỉ viết về cảm hứng độc lập dân tộc, thông qua sáu câu cuối, Nguyễn Trãi còn bày tỏ niềm tin về tương lai tươi sáng của đất nước. Xã tắc của dân nước Nam từ nay được vững bền, đất nước, non sông của dân tộc Đại Việt từ nay có chủ mới, tươi sáng, đẹp đẽ hơn. Chỉ sáu câu thơ mà có tới hai từ "vững bền, vững chãi" được nhắc tới để chỉ về tương lai của nước Nam. Nguyễn Trãi muốn thông qua đó khẳng định đanh thép rằng: Tương lai của người dân nước Nam từ nay sẽ được "đổi mới", vững bền tới muôn đời. Mặc dù phải trải qua những khó khăn "kiền khôn bĩ", "nhật nguyệt hối" nhưng rồi tất cả sẽ "thái rồi lai", "hối rồi minh" tức là tất cả đều sẽ lại tươi đẹp. Ở đây, Nguyễn Trãi đã dùng những từ ngữ chỉ quy luật vận hành của thiên nhiên, vũ trụ để khẳng định ý nghĩa chiến thắng của quân và dân nước Nam là hợp với ý trời, đúng với quy luật của vũ trụ, đồng thời ông cũng muốn bày tỏ sự tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

        Sự đổi thay, đổi mới giang sơn là điều kiện cần và đủ để thiết lập một sự vững bền mới cho xã tắc, muôn dân. Sự đổi mới này là trên nền tảng phục hưng một dân tộc nên nó chắc chắn sẽ mãi mãi trường tồn muôn thuở:

"Muôn thuở nền thái bình vững chãi"

        Bởi vì tương lai ấy được làm nên từ những trận đánh anh hùng, vang dội, nối tiếp những truyền thống của cha ông với ba lần đánh quân Nguyên - Mông. Và nối tiếp là hai câu thơ cuối:

"Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm

Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn"

        Như muốn bày tỏ khép lại một thời kì chiến đấu oanh liệt để mở ra một thời kì mới, kỉ nguyên mới xây dựng đất nước huy hoàng hơn, thịnh vượng hơn.

        Thông qua lời tuyên bố hùng hồn của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy cảm hứng dân tộc và tương lai của đất nước như được hòa quyện vào trong quy luật xoay chuyển của vũ trụ. Tức là vượt qua cơn hoạn nạn, khó khăn, chúng ta hướng tới một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn bội phần. Nguyễn Trãi đã thể hiện niềm trân trọng với quá khứ hào hùng của dân tộc để từ đó càng tin tưởng hơn vào một mùa xuân mới của đất nước được dựng xây từ chính bàn tay những người dân Đại Việt.


Thân bài Bình Ngô đại cáo - Bài mẫu 5

        Bình Ngô đại cáo là tác phẩm do Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào năm 1427, sau khi nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng 15 vạn quân Minh xâm lược. Mục đích bố cáo thiên hạ về chiến thắng vẻ vang của dân tộc, khẳng định lại chủ quyền lãnh thổ, đồng thời thuật lại cuộc chiến đấu đầy khó khăn gian khổ, làm nổi bật sự bất nhân bất nghĩa của quân Minh với Đại Việt ta, củng cố tinh thần yêu nước của nhân dân. Đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước, kết thúc chiến tranh, lập ra triều đại mới hứa hẹn sự thịnh trị và an bình dài lâu cho dân tộc.

        Trong tác phẩm, thứ nhất tinh thần yêu nước được tác giả thể hiện trong việc nêu lên luận đề chính nghĩa, để lấy đó làm căn cứ, cơ sở triển khai toàn bộ nội dung của bài cáo.

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi"

        Tinh thần yêu nước trước hết thể hiện ở tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ của Nguyễn Trãi "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", tức hành động nhân nghĩa phải đi liền với tình cảm yêu thương nhân dân, bảo vệ nhân dân khỏi những tai họa xâm lăng, đảm bảo cho nhân dân được một cuộc sống an bình, gắn với lòng yêu nước sâu sắc. Đồng thời cũng theo đó mà khẳng định nền độc lập lâu đời của dân tộc thông qua nhiều khía cạnh khác nhau như nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục khác biệt, và độc đáo, khéo léo trong việc so sánh các triều đại Triệu Đinh Lý Trần của nước ta với Hán, Đường, Tống Nguyên của phương Bắc, khẳng định việc xưng "đế" của dân tộc Đại Việt nhiều triều đại, chứ chưa từng chấp nhận làm chư hầu hay khuất phục trước sức mạnh của cường quốc bao giờ. Không chỉ vậy tinh thần yêu nước và lòng tự tôn dân tộc trong luận đề chính nghĩa còn được thể hiện một cách sắc bén thông qua việc tác giả khẳng định nước ta "hào kiệt đời nào cũng có", cùng với việc dẫn ra hàng loạt các chiến tích và sự thất bại thảm hại của vương triều phương Bắc khi tiến quân vào xâm lược nước ta trong lịch sử. Để thể hiện sức mạnh của một dân tộc tuy lãnh thổ nhỏ bé, nhưng tinh thần yêu nước, sự đoàn kết chống giặc ngoại xâm thì luôn luôn vĩ đại, sẵn sàng tiêu diệt những kẻ thù to lớn để bảo vệ Tổ quốc từ bao đời nay.

        Sau khi đã nêu ra được luận đề chính nghĩa, tác giả đi vào khai thác, vạch trần tố cáo tội ác của giặc Minh, với giọng điệu xót xa, đau đớn và căm hờn, bộc lộ tinh thần nhân nghĩa, yêu nước thương dân sâu sắc. Thứ nhất trong vai trò là một nhà quân sự, chính trị, Nguyễn Trãi đứng trên lập trường của dân tộc để chỉ ra sự nham hiểm xảo trá của quân Minh.

"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh"

        Lòng yêu nước và sự sáng suốt của một nhà chính trị đã chỉ ra âm mưu xâm lược trắng trợn của quân Minh, khi chúng nhân dịp vương triều của Hồ Quý Ly lục đục nội bộ, vua không được lòng dân, phản loạn nổi lên khắp nơi, lại lấy cớ "phù Trần diệt Hồ" mê hoặc lòng dân để đem quân tràn vào nước ta xâm lược, tàn phá. Tiếp theo đó, Nguyễn Trãi tiếp tục đứng trên lập trường của một người dân Đại Việt, căm thù giặc Minh và đớn đau trước thực cảnh của dân tộc, để vạch trần tội ác của quân xâm lược khi tràn vào lãnh thổ nước ta, tố cáo hành động tàn ác và chủ trương cai trị vô nhân đạo của kẻ thù. Thứ nhất chúng tàn hại đồng bào bằng những hành động diệt chủng đầy man rợ tàn khốc "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ", phá hủy cuộc sống an bình của nhân dân, ra sức vơ vét của cải "Nặng thuế khóa sạch không đầm núi/Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ", xem nhân dân ta như những cỗ máy biết nói, ra sức đàn áp, nô dịch thúc ép dân tộc Đại Việt phải lên rừng, xuống biển đối mặt với nhiều nguy hiểm, khổ sai để đem về những sản vật quý hiếm. Tất cả những tội ác ấy của giặc Minh được Nguyễn Trãi căm hờn tổng kết lại bằng hai câu "Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi". Cũng lần nữa khẳng định tội ác của giặc bằng câu cảm thán, câu hỏi "Lẽ nào trời đất dung tha/Ai bảo thần dân chịu được?", bộc lộ tấm lòng yêu nước thương dân, sâu sắc của tác giả. Đặc biệt tinh thần yêu nước ở đoạn này được tác giả bộc lộ thông qua giọng điệu lúc đau đớn, xót xa, lúc lại ngập tràn căm thù sâu sắc. Kết hợp với một loạt các hình ảnh mang giá trị biểu cảm, diễn tả sự vô cùng tận, không thể đong đếm thường xuất hiện trong điển cố "nước Đông Hải", "trúc Nam Sơn" để bộc lộ tội ác tày đình của giặc mang lại ấn tượng sâu sắc về tư tưởng nhân nghĩa, lòng yêu nước, thương dân tột cùng của Nguyễn Trãi.

        Không chỉ thể hiện ở luận đề chính nghĩa hay việc tố cáo tội ác của quân thù, mà tinh thần yêu nước còn được bộc lộ rất rõ trong quá trình tác giả thuật lại cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, đầy vất vả mà cũng lắm vẻ vang. Trước hết nói về chủ soái của nghĩa quân, được xem là người anh hùng tiêu biểu nhất cho tinh thần yêu nước của cả dân tộc, đại diện cho ý chí quyết tâm dẹp giặc ngoại xâm, là niềm tự hào, hy vọng của cả một dân tộc đang lầm than. Chúng ta có thể thấy rằng Nguyễn Trãi đã thông qua việc bộc lộ vẻ đẹp của Lê Lợi để thể hiện tinh thần yêu nước chung của nhân dân Đại Việt một cách rất khéo léo và tinh tế.

"Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh"

        Lê Lợi là một chủ soái xuất sắc, tài năng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, lại có ý chí quyết tâm chống giặc lâu dài, không quản ngày tháng, mãi vẫn luôn trăn trở vì nền độc lập của đất nước. Tất cả những biểu hiện ấy chính là minh chứng rõ nhất cho tinh thần yêu nước, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, của tác phẩm và của toàn nhân dân ta trong lúc đất nước gặp cảnh binh đao. Nhưng có lẽ rằng tinh thần yêu nước trong tác phẩm được thể hiện ấn tượng và sâu sắc nhất phải kể đến quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm đầy anh dũng, kiên cường của dân tộc ta. Đó là biểu hiện rõ nét nhất, mạnh mẽ nhất cho lòng tự tôn dân tộc, quyết tâm bảo vệ mảnh đất quê hương bằng mọi giá. Cuộc khởi nghĩa đã đi từ những ngày thiếu thốn, khó khăn gian khổ nhất, vừa thiếu hụt người tài ra giúp nước, lực lượng quân đội còn non yếu, lương thực khan hiếm, trái lại quân thù thì người đông thế mạnh. Thế nhưng nghĩa quân Lam Sơn chưa từng vì điều đó mà trở nên kiệt quệ, mòn ý chí, ngược lại chính trong khó khăn, khắc khổ và sự căm thù giặc sâu sắc thì tinh thần yêu nước lại càng được đẩy lên cao, trở thành sức mạnh không kẻ thù nào chống lại được. Từ tinh thần yêu nước của quân dân đã nảy ra sự đoàn kết, thống nhất trong nghĩa quân "Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào", trở thành sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, cùng nhau chống giặc bền bỉ, một lòng. Có thể nói rằng càng trong khó khăn, gian khổ thì tinh thần yêu nước của nhân dân ta lại càng được bộc lộ mạnh mẽ và rõ ràng. Trong chiến đấu tinh thần yêu nước được thể thông qua sự dũng mãnh, xông pha giết giặc của các tướng sĩ, những trận đánh oanh liệt"Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay/Sĩ khí đã hăng/Quân thanh càng mạnh", quân ta liên tục giành về những vùng đất Ninh Kiều, Tốt Động, Đông Đô, Tây Kinh, đánh cho quân địch thất bại thảm hại "Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân", "máu chảy thành sông", "thây chất đầy nội", nhục nhã vô cùng. Sĩ khí dâng cao, ta không vội mừng chiến thắng mà lơ là, khi kẻ địch tiếp tục mang quân chi viện, ta lại mau chóng "chặt mũi tiên phong", "tuyệt nguồn lương thực", "Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá...Lại thêm quân bốn mặt vây thành/Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc/Sĩ tốt kén người hùng hổ/Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh", khiến chúng không kịp trở tay, "trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế", "trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu", Lương Minh tử vong, Bá Khánh cùng kế phải tự vẫn,... Phải nói rằng nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng vô cùng vang dội, khiến kẻ thù nghe tiếng mà sợ hãi khôn cùng. Một Đại Việt nhỏ bé cả về lãnh thổ lẫn quân đội, nhưng lại có thể chiến thắng vẻ vang như thế không nằm đâu ngoài tinh thần yêu nước sâu sắc đã thành truyền thống từ bao đời nay cùng với tinh thần đoàn kết một lòng quyết tâm chống giặc. Kết thúc trận chiến, chúng ta đã không chọn cách đuổi cùng diệt tận mà lại "Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh", "Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền/ Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa". Đó cũng là một biểu hiện rất tinh tế của lòng yêu nước, bởi đất nước ta bấy lâu bị tàn phá nặng nề, việc cần làm là khôi phục nguyên khí của quốc gia, chứ không phải theo đuổi cuộc chiến, gây thù hằn sâu sắc với giặc Minh. Trái lại việc mở đường hiếu sinh cho chúng lại trở thành một hành động nhân văn bảo vệ đất nước, nhân dân khiến nhà Minh tạm thời không dám manh động, lại làm việc bất nghĩa, để quân dân ta được nghỉ sức xây dựng lại đất nước. Đấy mới là tinh thần yêu nước chân chính.

        Cuối cùng trong phần kết của bài cáo, tinh thần yêu nước lần nữa được khẳng định thông qua việc Nguyễn Trãi tuyên bố nền độc lập chủ quyền của dân tộc bằng giọng văn hùng hồn, sắc sảo, niềm tự hào, kiêu hãnh "Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới", mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, khai sinh ra một triều đại thịnh trị lâu dài. Bên cạnh đó cũng không quên rút ra những bài học cho hậu thế về sau, thể hiện sự chu toàn, cũng như tấm lòng lo nghĩa cho muôn dân, khẳng định quy luật tuần hoàn của lịch sử, trời đất"Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh", tin tưởng vào vận mệnh và sức mạnh của dân tộc có thể xoay chuyển càn khôn. Nhưng đồng thời cũng thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với truyền thống ngàn đời của dân tộc " u cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ" và sức mạnh tổng hợp của thời đại "Một cỗ nhung y chiến thắng/Nên công oanh liệt ngàn năm".

icon-date
Xuất bản : 16/04/2021 - Cập nhật : 17/04/2021