logo

Tác giả - Tác phẩm: Chuyện cơm hến (Tóm tắt, nội dung, nghệ thuật, HCST, sơ đồ tư duy)

Khái quát Tác giả - Tác phẩm: Chuyện cơm hến bao gồm Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và hoàn cảnh sáng tác, thể loại, bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, đặc sắc nghệ thuật tác phẩm Chuyện cơm hến - SGK Kết nối tri thức Văn 7

Chuyện cơm hến


I. Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường

Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế, nhưng quê gốc lại ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Thời niên thiếu ông sinh sống và học tập tại Huế. Sau khi học hết bậc trung học, ông di chuyển vào TP HCM để học tại trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1960, ông tốt nghiệp khóa I ban Việt Hán trường Đại học Sư phạm Sài Gòn.

Trong những năm đầu của thập niên sáu mươi, Hoàng Phủ Ngọc Tường giảng dạy tại trường Trung học phổ thông chuyên Quốc Học Huế. Sau đó, ông chia xa gia đình để lên chiến khu, tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thông qua hoạt động văn học nghệ thuật

Tác giả - Tác phẩm: Chuyện cơm hến (Tóm tắt, nội dung, nghệ thuật, HCST, sơ đồ tư duy)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây bút đa tài với các thiên bút ký vừa trữ tình, thâm trầm vừa độc đáo, tài hoa. Không những thế, mỗi áng thơ sâu lắng, lãng mạn mang tên ông còn để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả. Nhà văn luôn sáng tác với một phong cách nghệ thuật riêng biệt, tác phẩm của ông luôn mang một sức liên tưởng dồi dào và lối hành văn mê đắm, hài hòa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và niềm suy tư đa chiều. Chính những đặc điểm ấy ở nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mà nền văn học Việt Nam mới có được những trang bút ký tuyệt vời có giá trị sâu sắc cho đến tận ngày hôm nay.

Năm 2007, tác giả được trao tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cho những đóng góp lớn của mình vào kho tàng văn học Việt. Nổi bật trong số đó có tác phẩm Rất nhiều ánh lửa với giải thưởng Văn học Hội nhà văn Việt Nam hay Ai đã đặt tên cho dòng sông được tinh tuyển là một trong những bút ký hay nhất.


II. Khái quát tác phẩm Chuyện cơm hến


1. Hoàn cảnh sáng tác

- Trích Huế - Di tích và con người

Tác giả - Tác phẩm: Chuyện cơm hến (Tóm tắt, nội dung, nghệ thuật, HCST, sơ đồ tư duy)

2. Thể loại

Tản văn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc hoạ nhân vật. Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính chất chấm phá không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính tác giả… Tản văn là loại văn tự do, dài ngắn tuỳ ý, cách thể hiện đa dạng, đặc biệt là thể hiện nổi bật chính kiến và cá tính tác giả


3. Bố cục

Có thể chia văn bản thành 2 phần:

- Phần 1 (từ đầu đến “những “đồ giả””): Món cơm hến, đặc sản xứ Huế

- Phần 2 (còn lại): Món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hóa của Huế


4. Giá trị nội dung

Chuyện cơm hến không phải chỉ đơn giản là văn bản giới thiệu một món ăn. Tác giả còn giới thiệu đến người đọc những câu chuyện xung quanh món cơm hến và đặc biệt là khẳng định giá trị văn hóa tinh thần của món ăn


5. Đặc sắc nghệ thuật

- Ngôn ngữ bình dị, đậm chất địa phương

- Lối viết lôi cuốn, hấp dẫn

- Cái tôi yêu quê hương, yêu văn hóa ẩm thực


6. Tác phẩm Chuyện cơm Hến

Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời, phải nếm đủ vị mặn, lạt, chua, cay, ngọt, bùi, không chê vị nào; lại còn tỏ ra thích thú với hai vị mà thiên hạ đều sợ, là cay và đắng. [... | Người Huế thích dùng mướp đắng lúc còn xanh; nấu canh phải đuông nội nước sôi xuống đề thả mướp vào mới đảm bảo là đẳng, lại còn bóp mướp sống làm món nộm, đẳng một cách tuyệt vời! Có hôm tàu đừng ở ga Lăng Cô, thầy nắm tràm bán rẻ như cho không tôi bèn hí hửng mua luôn một rô làm quả cho chú bạn tôi ở Đà Nẵng, gọi là đặc sản xứ Huế. Cháo nấm tràm nấu ra ngon đến thế, nhưng chỉ có đám ụp vừa húp vừa khen, còn bạn nhậu người Quảng đều né hết, vì đắng không chịu nổi. Hoá ra chỉ cách nhau cái đèo Hải Vân thôi mả cách ăn uống của người Huế lạ đời đến thế!

Nhưng lạ nhất là thói ăn cay đến nỗi chính tôi cũng không hiểu sao mình lại ăn cay “tài” đến vậy. Người Huế có đủ cung bậc ngôn ngữ đề điền tả vị cay, bao gồm hết mọi giác quan, cảng nói cảng “sướng miệng” cay phỏng miệng, cay xé lưỡi, cay điếc mũi, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi, cay điếc tai, cay điếc óc,...[... ] Có thẻ nói rằng người Huế bắt đầu thực đơn hằng ngày bằng một tô bún bò “cay để sợ”, tiếp theo là một ngày cây “túi mắt túi mũi” để kết thúc với tiếng rao ”Ai ăn chè?" Một chén ngọt lịm trước khi ngủ.

Tôi xin giới thiệu một ngày “Hạnh phúc trời hành” của dân Huế tui, bắt đầu bằng món cơm hến, Những món ăn Huế như bún bò, cháo lỏng,.... bây giờ trở thành phổ biến khắp nơi (dù đã mắt đi bản chất cay của nó) chỉ món cơm hến nảy lả không nơi não có. Hà Nội, Sài Gòn cũng có vải ba quản Huê có cả cơm hến, tôi đã thử xem, đều toàn là nghêu xắt nhỏ, đầu phải là hên. Vậy thì cơm hến là gì?

Trước hết, nói về cơm. Người Việt mình ăn cơm kiểu nào cũng phải nóng, duy chỉ cơm hên nhất thiết phải là cơm nguội. Hình như người Huế muốn bày tỏ một quan niệm rằng trên đời chẳng có một vật gì đáng phải bỏ đi, nên bày ra món cá lẹp!” kẹp rau mưng”, và món cơm nguội với những con hẻm nhỏ lăn tăn làm sốt một người chế biển món ăn, gọi là cơm hẻn. Sau nảy ở Huế người ta còn bảy thêm món bún hến, dùng bún thay cơm nguội. Tôi rất ghét những lỗi cải tiến tạp nham như vậy. Bún đã có bún bò, ai có giang sơn ấy, việc gì phải cướp bản quyền sáng chế của người khác. Vả lại, người Huế (Huế xưa, không phải bây giờ) rất kiên định trong Iập trường ăn uống của mình. Tôi nghĩ rằng trong vẫn để khẩu vị, tính bảo thủ là một yếu tố văn hoá hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản. Với tôi, một món ăn đặc sản cần giống như một di tích văn hoá, cứ phải giống y như ngày xưa, và mọi ý đỗ cải tiền đều mang tính phá phách, chỉ tạo nên những "đô giả”!

Xin tiếp tục chuyện cơm hến. Hến ở Huế ngon nhất là hến còn, do đỏ cái còn nỗi chiêm vị trí '*Tả Thanh Long' ràt mực quan trọng trong Dịch lý“ của kiến trúc kinh thảnh, đâu chỉ gọi nôm na là Con Hến. Đáy sông quanh cồn có một lớp bùn sâu, là môi xinh màu mỡ của loài hến. Điều lạ là con hên, dù không có tay chân. nhưng khi thời tiết thay đổi làm đòng nước chảy mạnh có thể lặn sâu xuống đáy bùn để khỏi bị nước cuốn đi. Dân cỏn làm nghề xúc hến mỗi năm đều có lễ củng hẻn vào tháng Bảy, trên những con đò cờ xí rộn ràng, tiếng trống vang lừng, người ta luộc hến xong đem ra sông đãi trong những chiếc rỏ lớn, tách vỏ, lấy riêng mặt hên!9 đêm đong chén bán cho những người làm cơm hến.

Mặt hến này là vị chủ của cơm hến xào kèm theo bún tàu (miến), măng khô vả thịt heo thái chỉ. Món thứ ba trong cơm hến là rau sống. Chỉ một túm thôi, những rau sống này làm băng thân chuỗi hoặc bắp chuối xắt mỏng như sợi tơ, trộn lẫn với môn bạc hà, khoẻ và rau thơm thái nhỏ, giá chân (trụng”) sơ qua nước sôi, có khi còn điểm thêm những cánh bông vạn thọ vàng, nhìn tươi mắt và có thêm mùi thơm riêng.

Nước luộc hến được rút ra từ chiến nội cung bốc khói nghi ngút, bằng chiếc gáo làm bằng sọ dừa xinh xắn, cho vào một cái tô đã gom đủ cơm nguội, hến xào, rau sống vả được giao thêm đủ vị đủ màu. Nước hến cỏ giã thêm gừng màu trắng đùng đục. Vâng, mê nhất cải màu đùng đục ấy, ăn cơm hến mà chê nước đục là... dại!

Bộ đồ màu của cơm hến là nhiêu khê nhất thiên hạ. Đây là bản liệt kê các món gia vị mà tôi từng quan sát được ở một ảnh cơm hến, chắc có thể coi là “lý tưởng” như sau:

1. Ớt tương

2. Ớt màu, ớt đâm nước mắm

3. Ruốc sống

4. Bánh tráng nướng bóp vụn

5. Muối rang

6. Hạt đâu phụng” rang mỡ, giã hơi thô thô

7. Mẻ rang

8. Da heo rang giòn

9. Mỡ và tóp mỡ.

10. Vị tỉnh.

Tất cả được đựng trong những, thấu 9, những vịm bày trên một cái trẹc, o bán cơm hến lây ra bằng những chiếc gáo mù u nhỏ xíu, bàn tay thoăn thoắt mỗi thứ một ít.

Hương vị bát ngất suốt đời người của tô cơm hến là mùi ruốc thơm dậy tận óc, và vị cay đến trào nước mắt. Người ‘’nấu” cơm hến vẫn chưa vừa lòng với vị cay sẵn có, còn đòi thêm một trái ớt tươi đẻ cắn kêu cái rốp! Nước mắt đầm đìa, mồ hôi ròng ròng nhỏ giọt vào tô cơm thê mà cứ xì xụp, xuýt xoa kêu “ngon, ngon”; đi xa nhớ lại thèm đứt sợi tóc, ở nước ngoài về bay ra Hue đẻ ăn cho được một tô cơm hên lấy làm hả hệ, thể đây, chao ôi là Huế!

Tôi nhớ lần ấy, chiều mưa râm ri cỡ tháng Mười một, tôi ngồi ăn cơm hến ở nhà Bửu Ý ở đường Hàng Me. Tôi vừa đi Tây vẻ, suốt hai tuần ở cung Đại hội các nhà văn, bữa ăn nào cũng toàn thịt, bơ, phó mắt,... đến nỗi tôi thất kinh, nhiễu ngày chỉ mang một mớ trải cây vẽ phòng ăn trừ bữa. Nhiễu tuần lễ không cỏ một hạt cơm ở trong bụng, nghe tiếng rao cơm hến tôi thấy xúc động tận chân răng. Đây là lần đầu tiên tôi ăn một tô cơm hến “bằng tất cả tâm hồn”. Thấy chị bán hảng phải cho quá nhiều thứ trong một bát cơm nhỏ, công phu thế mà chỉ bản có năm trăm đồng bạc, tôi lẫy làm ái ngại hỏi chị:

- Lời lãi bao nhiêu mà chị phải kĩ đến thế. Chỉ cần ba bốn thứ, vừa vừa thôi, có đỡ mất công không?

Chỉ nhìn tôi với đôi mắt giận dỗi khác lạ:

- Nói như cậu thi... còn chỉ là Huế!

Chị gánh hàng đi, dáng gầy mỏng manh, chiếc áo dài đen cũ kĩ, chiếc nón cời và tiếng rao lanh lảnh. Hồi nãy tôi đã đếm và biết gánh cơm trên vai chị có tất cả mười bốn vị. Bây giờ tôi mới  phát hiện thêm vị thứ mười lăm, lả lửa. Vâng, một bếp lửa chắt chiu, ấp ủ đi trong mưa suốt mùa đông, bền bỉ theo bước chân người.

(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huế - Di tích và con người,

NXB. Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2001, tr. 44 - 50)


7. Sơ đồ tư duy


III. Câu hỏi vận dụng kiến thức tản văn Chuyện cơm hến

Câu hỏi 1: Chuyện cơm hến có phải chỉ đơn giản là văn bản giới thiệu một món ăn không? Tác giả bàn tới những điều gì xung quanh món cơm hến?

Lời giải:

Chuyện cơm hến không phải chỉ đơn giản là văn bản giới thiệu một món ăn. Tác giả còn giới thiệu đến người đọc những câu chuyện xung quanh món cơm hến và đặc biệt là khẳng định giá trị văn hóa tinh thần của món ăn.

Câu hỏi 2: Những chi tiết nào cho thấy cơm hến là món ăn bình dân?

Lời giải:

Cơm hến là món ăn bình dân vì nó được làm từ những nguyên liệu bình dân, phù hợp với nhiều con người, đó là cơm nguội với những con hến nhỏ lăn tăn

- Về cơm: Cơm nguội

- Hến: Xào kèm theo bún tàu (miến), măng khô và thịt heo thái chỉ.

- Rau sống: Làm bằng chân chuối hoặc bắp chuối xát mỏng như sợi tơ, trộn lẫn với bạc hà, khế và rau thơm thái nhỏ, giá trần, có khi được thêm những cánh bông vạn thọ vàng.

Câu hỏi 3: Món cơm hến cho thấy đặc điểm gì trong phong cách ăn uống của người Huế?

Lời giải:

Món cơm hến cho thấy đặc điểm trong phong cách ăn uống của người Huế: ăn cay. Có nhiều người vẫn chưa thấy thỏa thích với độ cay ban đầu của cơm hến mà cần gọi thêm một trái ớt tươi,…

Câu hỏi 4: Tác giả là người vùng nào? Chi tiết nào cho thấy điều đó

Lời giải:

- Tác giả là người Huế.

- Chi tiết cho thấy điều đó là: Tôi xin giới thiệu một ngày “Hạnh phúc trời hành” của dân Huế tui…

Câu hỏi 5: Theo em, tại sao tác giả lại cho rằng “một món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hóa”?

Lời giải:

Tác giả cho rằng “một món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hóa” vì tác giả coi mỗi món ăn cũng là một nét văn hóa của từng vùng miền và việc “cải tiến tạp nham” món ăn cũng là ăn cắp bản quyền sáng chế nơi khác. Do đó, món ăn cũng phải giống như một di tích văn hóa, giống y như ngày xưa.

Câu hỏi 6: Hình ảnh chị bán hàng cùng gánh cơm hến và bếp lửa gợi cho em suy nghĩ gì về ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa của cư dân bản địa?

Lời giải:

Hình ảnh chị bán hàng cùng gánh cơm hến và bếp lửa làm cho em cảm thấy ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa của cư dân bản địa ở Huế rất tốt. Ý thức này được truyền đến khắp mọi người dân ở Huế. Nếu con người ở nơi đâu cũng có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa của vùng miền, quê hương mình thì những truyền thống văn hóa tốt đẹp, những món ngon của quê hương sẽ được gìn giữ và lưu truyền mãi mãi.

Câu hỏi 7: Em cảm nhận như thế nào về cái tôi của tác giả được thể hiện trong Chuyện cơm hến?

Lời giải:

Cái tôi của tác giả được thể hiện trong “Chuyện cơm hến” là cái tôi yêu quê hương, yêu những nét văn hóa ẩm thực độc đáo của quê hương mình. Đồng thời, đó cũng là cái tôi bày tỏ quan điểm về cải tiến, phá cách món ăn quê hương, ông mong muốn những món ăn này vẫn giữ nguyên được hương vị và giá trị của mình.

Câu hỏi 8: Mỗi vùng miền trên thế giới đều có những nét riêng trong phong cách ẩm thực. Hãy chia sẻ hiểu biết của em về vấn đề này.

Lời giải:

Mỗi vùng miền trên thế giới đều có những nét riêng trong phong cách ẩm thực để cùng tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo, đặc trưng của mỗi nước. Và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Những món ăn nổi tiếng như: bún đậu mắm tôm (Việt Nam), sushi (Nhật Bản), Kim Chi (Hàn Quốc) …

Câu hỏi 9: Nếu được yêu cầu giới thiệu về một món ăn đặc sản ở quê em, em sẽ chọn món nào?

Lời giải:

- Nếu được yêu cầu giới thiệu về một món ăn đặc sản ở quê em:

+ Em sẽ chọn cốm

+ Em sẽ giới thiệu về phở

=> Đó là những món ăn đặc trưng cho nét văn hóa ẩm thực Hà Nội

>>> Xem trọn bộ: Tác giả - Tác phẩm Văn 7 Kết nối tri thức

-----------------------------

Trên đây Top lời giải đã cùng các bạn Khái quát về Tác giả - Tác phẩm: Chuyện cơm hến trong bộ SGK Kết nối tri thức theo chương trình sách mới. Chúng tôi hi vọng các bạn đã có kiến thức hữu ích khi đọc bài viết này. Top lời giải đã có đầy đủ các bài giới thiệu về tác giả tác phẩm các bộ sách mới Cánh Diều, Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức. Mời các bạn hãy click ngay vào trang chủ Top lời giải để tham khảo và chuẩn bị bài cho năm học mới nhé. Chúc các bạn học tốt! 

icon-date
Xuất bản : 11/07/2022 - Cập nhật : 26/07/2022