Cây hỏi: Sự ra đời của chủ nghĩa Mác dựa trên những điều kiện tiền đề nào?
Trả lời:
Chủ nghĩa Mác ra đời, phát triển trên cơ sở ba điều kiện, tiền đề cơ bản sau đây:
- Điều kiện kinh tế - xã hội
- Tiền đề lý luận
- Tiền đề khoa học tự nhiên
Cùng Top lời giải tìm hiểu về những tiền đề ra đời của chủ nghĩa Mác nhé!
Cho đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập và đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ của nó ở các nước Tây Âu, đặc biệt là tại các nước Anh, Pháp. Sự phát triển đó, một mặt đã tạo ra được những thành tựu to lớn về nhiều mặt kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của nó là đã tự tạo ra những mâu thuẫn không thể giải quyết được trong phạm vi chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trung tâm của những mâu thuẫn đó được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn gay gắt giữa hai giai cấp: giai cấp tư sản (chủ sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội) và giai cấp vô sản (giai cấp công nhân làm thuê). Mâu thuẫn đó được bộc lộ thành những cuộc đấu tranh ngày càng phát triển của giai cấp công nhân tại nhiều nước tư bản, đặc biệt là những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân làm thuê tại các nước Anh, Pháp và Đức.
Sự phát triển của các cuộc đấu tranh đó làm phát sinh nhu cầu cần có một lý luận cách mạng và khoa học của nó. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là nhằm đáp ứng nhu cầu này. Đồng thời chính thực tiễn phát triển của nó lại là một trong những điều kiện thực tiễn cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác.
Chủ nghĩa Mác là sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, mà trực tiếp và trước hết là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
* Triết học cổ điển Đức:
Đặc biệt triết học của Hêghen và Phoiơbắc đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác.
Công lao của Hêghen là ông đã diễn đạt được nội dung của phép biện chứng dưới dạng lý luận chặt chẽ thông qua hệ thống các quy luật phạm trù. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm và tính chất phản động trong quan điểm về chính trị- xã hội. Chính vì vậy, Mác và Ăngghen khi phê phán triết học của Heghen đã không phủ định sạch trơn mà đã giữ lại “hạt nhân hợp lý”, đó phép biện chứng. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, Mác và Ăngghen đã cải tạo để hình thành nên phép biện chứng duy vật của mình.
Đối với triết học của Phoiơbắc, Mác và Ăngghen đã phê phán tính chất siêu hình trong chủ nghĩa duy vật nhân bản và trong quan điểm về giới tự nhiên, tính chất duy tâm trong quan điểm về xã hội. Tuy nhiên, chính chủ nghĩa duy vật, vô thần của Phoiơbắc đã tạo tiền đề quan trọng cho bước chuyển biến của Mác và Ănghhen từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa.
* Kinh tế chính trị cổ điển Anh:
A.Smith và D.Ricácđô là người có công lớn trong việc nghiên cứu kinh tế chính trị. Các ông đã xây dựng thành công lý luận về giá trị của của lao động, đưa ra những kết luận quan trọng về giá trị và nguồn gốc của lợi nhuận; về tính chất quan trọng của quá trình sản xuất vật chất; về những quy luật kinh tế. Tuy nhiên, các ông lại không thấy được tính lịch sử của giá trị, mâu thuẫn và tính hai mặt của sản xuất hàng hóa, không phân biệt được hàng hóa giản đơn và hàng hóa tư bản chủ nghĩa, chưa phân tích được chính xác biểu hiện của giá trị trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Mác và Ăngghen đã kế thừa những quan điểm hợp lý khoa học trong học thuyết trên, đồng thời phê phán cũng như khắc phục tính chất chưa triệt để trong học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó, hai ông đã xây dựng nên học thuyết về giá trị lao động, học thuyết giá trị thặng dư, luân chứng khoa học về bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
* Chủ nghĩa xã hội không tưởng:
Chủ nghĩa xã hội không tưởng đã có sự phát triển lâu dài và đỉnh cao vào cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX, với các đại biểu tiêu biểu là S.Simon, Fourier và R.Owen. Mác và Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng nhân đạo; sự phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản và đưa ra những dự báo về xã hội tưởng lai. Đồng thời, hai ông đã khắc phục những hạn chế trong học thuyết của họ, đó là tích chất không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó, đã tạo tiền đề lý luân quan trọng cho sự ra đởi của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa Mác
Cho đến những năm giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những bước phát triển mới, đem lại một số quan niệm mới mẻ về giới tự nhiên so với trước đó. Tiêu biểu cho những quan niệm mới này là: khẳng định tính chất bảo toàn năng lượng trong quá trình biến đổi của vật chất trong giới tự nhiên; khẳng định tính thống nhất về cơ sở vật chất của mọi sự sống là tế bào; khẳng định tính tất yếu khách quan của quá trình phát triển các loài sinh vật trên trái đất. Những quan niệm mới này đóng vai trò là những bằng chứng xác thực (ở tầm khoa học) của các quan điểm duy vật biện chứng về giới tự nhiên.
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hóa những hình thức vận động của chúng.
+ Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; dặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật với động vật.
+ Thuyết tiến hóa đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những thành tựu trong lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học, mà còn do bản thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự ra đời của nó.
Như vậy, những điều kiện tiền đề của sự ra đời Chủ nghĩa Mác bao gồm một điều kiện về kinh tế – xã hội và hai tiền đề. Bởi vậy, Chủ nghĩa Mác “cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại” và Đảng Cộng sản Việt Nam “kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”.