Câu hỏi: Song thất lục bát là gì?
Lời giải
Thể thơ song thất lục bát (雙七六八, đôi 7 6-8), cũng được gọi là lục bát gián thất (六八間七, 6-8 xen 7) hay thể ngâm là một thể văn vần (thơ) đặc thù của Việt Nam. Một số tác phẩm lớn trong văn chương Việt Nam, trong đó có bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra quốc âm đã được viết theo thể thơ này.
Thơ song thất lục bát gồm có 2 câu 7 chữ và 1 câu 6 chữ, 1 câu 8 chữ.
Chữ cuối câu bảy trên vần với chữ thứ 5 câu bảy dưới, chữ cuối câu bảy dưới vần với chữ cuối câu lục, tiếng cuối câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát. Và chữ cuối câu bát vần với chữ thứ 5 (đôi khi chữ thứ 3) của câu thất tiếp theo.
Câu số |
Vần |
|||||||
1 | - | - | t | - | b | - | T | |
2 | - | - | b | - | T | - | B | |
3 | - | b | - | t | - | B | ||
4 | - | b | - | t | - | B | - | B |
5 | - | - | t/b | - | B | - | T | |
6 | - | - | b | - | T | - | B | |
7 | - | b | - | t | - | B | ||
8 | - | b | - | t | - | B | - | B |
Chữ thứ |
--1-- |
--2-- |
--3-- |
--4-- |
--5-- |
--6-- |
--7-- |
--8-- |
Chú thích:
-: Không bắt buộc
T: vần trắc, với các dấu thanh: Hỏi, ngã, sắc, nặng
B: vần bằng, với các dấu thanh: Ngang (không) hay huyền
Chữ in hoa: Chữ phải giữ vần
Cùng Top lời giải tìm hiểu thêm về thể thơ Song thất lục bát nhé:
Là một thể thơ đặc biệt của người Việt, song thất lục bát cùng với lục bát rất được các tác giả ưa chuộng trong suốt thời kì văn học trung đại Việt Nam. Thể thơ này phát triển mạnh vào thế kỉ 18 cho đến tận đầu thế kỉ 20. Nhiều tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam đã sử dụng thể thơ này như bản dịch Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm), Ai tư vãn(Lê Ngọc Hân), Văn tế thập loại chúng sinh (Nguyễn Du), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), bản dịch Tì bà hành (Phan Huy Thực), Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến), Hải Ngoại huyết thư (Phan Bội Châu)v.v...
Sau khi phong trào Thơ mới xuất hiện, song thất lục bát không còn được các nhà thơ ưa chuộng nữa. Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thông, Hàn Mặc Tử có số ít bài song thất lục bát. Các tác phẩm thuộc thể thơ này ngày càng hiếm gặp, có lẽ một phần do những quy định về vần luật phức tạp và khó khăn của nó. Một số tác phẩm song thất lục bát tiêu biểu của thời kì hiện đại có thể kể đến: Bà má Hậu Giang, Ba mươi năm đời ta có Đảng (Tố Hữu)...
- STLB được viết thành từng khổ, mỗi khổ 4 câu, bao gồm 2 câu 7 chữ (2 câu Thất), một câu 6 chữ (1 câu Lục) và một câu 8 chữ (1 câu Bát)
- Hai câu Thất hầu như tất cả đều được ngắt nhịp 3|4, có thể đối nhau hoặc không đối. Tất nhiên những câu có đối nghe sẽ hay hơn. Và 3 chữ đầu trong câu Thất thường gợi nên một hình ảnh, hoặc một âm thanh để câu thơ đột nhiên trở nên sắc sảo như một nét khắc hoạ, một ấn tượng mạnh mẽ đi thẳng vào tâm hồn người đọc vậy
- Một bài thơ STLB hay, luôn luôn có đi kèm cùng các hình thức Mỹ Từ Pháp như: Ngắt mạch, tiểu đối, đồng dạng, đảo ngữ, điệp ngữ v.v...
Bảng Luật :
x x T x B x T (vần 1)
x x B x T (vần 1) x B (vần 2)
x B x T x B (vần 2)
x B x T x B (vần 2) x B (vần 3)
x x T x B (vần 3) x T (vần 4)
x x B x T (vần 4) x B (vần 5)
x B x T x B (vần 5)
x B x T x B (vần 5) x B (vần 6)
* Ghi chú:
- B: phải là bằng
- T: phải là trắc
- x: bằng hoặc trắc đều được
---------------------------------
Một đoạn song thất lục bát tiêu biểu với "yêu vận" và "cước vận" in đậm:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Nào ai gây dựng cho nên nỗi này
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt khúc mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch đợi ngày xuất chinh
Chinh Phụ Ngâm
TIẾT PHỤ NGÂM
Thiếp có chồng, chàng đà hay BIẾT,
Đôi minh châu tha THIẾT còn TRAO
Nghĩ tình vương vấn khít KHAO,
Ngọc này thiếp buộc áo ĐÀO thắm TƯƠỊ
Nhà thiếp ở lầu NGOÀI ngự UYỂN,
Chồng thiếp làm lính ĐIỆN Minh QUANG.
Biết chàng lòng sáng như TRĂNG,
Thờ chồng, thiếp nguyện đá VÀNG thủy CHUNG.
Trả minh châu, lệ đôi DÒNG,
Hận không lúc thiếp chưa CHỒNG gặp NHAỤ
Trần Trọng San dịch
----------------------------
Phân tích:
* BIẾT vần với THIẾT (vần 1)
* TRAO vần với KHAO và ĐÀO (vần 2)
* TƯƠI vần với NGOÀI (vần 3)
* UYỂN vần với ĐIỆN (vần 4)
* QUANG vần với TRĂNG và VÀNG (vần 5)
* CHUNG vần với DÒNG và CHỒNG (vần 6)
Chú ý: Trong bài thơ này, 2 câu cuối cùng là Lục Bát. Bài thơ này là một loại biến thể của Song Thất Lục Bát vì không theo đúng quy tắc nêu ở trên.