logo

Sông tên xanh biếc sông chi? Sông gì tiếng vó ngựa phi vang trời?

Cùng Top lời giải trả lời chi tiết, chính xác câu hỏi: “Sông tên xanh biếc sông chi? Sông gì tiếng vó ngựa phi vang trời?” và đọc thêm phần kiến thức tham khảo giúp các bạn học sinh ôn tập và tích lũy kiến thức bộ môn Tiếng Việt 4.


Trả lời câu hỏi: Sông tên xanh biếc sông chi? Sông gì tiếng vó ngựa phi vang trời?

- Sông tên xanh biếc là: Sông Lam.

- Sông mà tiếng vó ngựa phi vang trời là: Sông Mã.


Kiến thức tham khảo về sông Lam và sông Mã


1. Sông Lam

- Sông Lam, còn có tên gọi khác là Ngàn Cả, Sông Cả, Nậm Khan, là một trong hai con sông lớn nhất ở Bắc Trung Bộ Việt Nam.

- Sông bắt nguồn từ cao nguyên Xiengkhuang, Lào. Phần chảy trên lãnh thổ Lào gọi là Nam Khan. Phần chính của dòng sông chảy qua Nghệ An, phần cuối của sông Lam hợp lưu với sông La từ Hà Tĩnh, tạo thành ranh giới của Nghệ An và Hà Tĩnh đổ ra biển tại cửa Hội. Tổng cộng các chiều dài của sông theo Bách khoa toàn thư Việt Nam là khoảng 512 km, đoạn chảy trong nội địa Việt Nam khoảng 361 km. Tuy nhiên có nguồn khác thì cho rằng dòng sông này có hai nguồn chính, nếu tính theo đầu nguồn từ Nậm Mơn (từ dãy Pu Lôi) thì Sông Lam dài 530 km, nếu tính đầu nguồn bắt đàu từ Nậm Mô (cao nguyên Trấn Ninh) thì chiều dài sông là 432 km.[1] Diện tích lưu vực của con sông này là 27.200 km², trong số đó 17.730 km² thuộc Việt Nam. Tính trung bình của cả triền sông thì sông Lam nằm ở cao độ 294 m và độ dốc trung bình là 18,3%. Mật độ sông suối là 0,60 km/km². Từ biên giới Việt - Lào đến Cửa Rào, lòng sông dốc nhiều với hơn 100 ghềnh thác. Từ Cửa Rào trở về xuôi, tàu thuyền nhỏ có thể đi lại được trên sông vào mùa nước. Tổng lượng nước 21,90 km³ tương ứng với lưu lượng trung bình năm 688 m³/s và môđun dòng chảy năm 25,3 l/s.km². Lưu lượng trung bình mỗi năm tại Cửa Rào là 236 m³/s, tại Dừa: 430 m³/s. Mùa lũ từ tháng 6 đến tháng 11 cũng là mùa mưa, góp khoảng 74-80% tổng lượng nước cả năm.

- Sông chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, khi gần tới biển chảy ngược lên hướng Bắc. Có một số nhánh sông nhân tạo lấy nước từ Sông Lam như sông Đào.

- Sách Đại Nam nhất thống chí viết: ...sông Lam Giang, tục gọi sông Cả, có hai nguồn: Một nguồn chảy ra từ các núi phủ Trấn Biên xứ Nghệ (nay là đất huyện Samtay tỉnh Hủa Phăn Lào), phủ Trấn Ninh xứ Nghệ (nay thuộc Xiêng Khoảng Lào), chảy về phía Đông đến phủ Tương Dương xứ Nghệ qua núi Thành Nam gọi là nguồn Tương. Nguồn kia bắt đầu từ vùng núi huyện Thúy Vân xứ Nghệ chảy về phía Đông Nam vào phủ Quỳ Châu gọi là nguồn Hiếu. Hai nguồn hợp nhau chảy về Đông đến các huyện Thanh Chương, Nam Đường (nay là Nam Đàn) gặp sông Dương và sông Vũ từ phía Tây đổ vào, sông Cương từ phía Bắc chảy vào, rồi chảy đến phía Nam núi Lam Thành thì hội với sông La thành sông Tam Chế và đổ ra biển Đông tại cửa Hội.

- Cùng với núi Hồng Lĩnh, sông Lam được xem là biểu tượng của xứ Nghệ. Hai bên dòng sông Lam có những làng văn hóa của Nghệ An và Hà Tĩnh như Yên Hồ (Đức Thọ), Tiên Điền, Uy Viễn (Nghi Xuân), Trung Lương (Thị xã Hồng Lĩnh), Trung Cần, Hoành Sơn, làng Kim Liên (Nam Đàn) tạo nên một vùng văn hóa Lam Hồng.


2. Sông Mã

a. Vị trí địa lý

Sông tên xanh biếc sông chi? Sông gì tiếng vó ngựa phi vang trời?

- Huyện Sông Mã nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Sơn La. Độ cao trung bình 600 m so với mực nước biển.

- Tọa độ địa lý : từ 20039’33”-21022’ vĩ độ Bắc; từ 103014’56”-104006’ kinh độ Đông. Tứ cận: phía Bắc giáp huyện Thuận Châu; phía Nam giáp huyện Mường Ét, tỉnh Hủa Phăn (nước CHDCND Lào) và huyện Sốp Cộp; phía Đông giáp huyện Mai Sơn; phía Tây giáp huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên. Huyện lỵ đặt tại Thị trấn Sông Mã.    

b. Địa hình

- Đặc điểm địa hình Sông Mã: kéo dài dọc sông Mã, địa hình khá phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam xen kẽ với các thung lũng và hệ thống sông, suối. Hệ thống núi dọc biên giới Việt - Lào đại diện cho vùng cao của huyện, có độ cao từ 306 - 1819m so với mực nước biển (thấp nhất là cánh đồng Nà Co Nghe, bản Trại Phong, xã Chiềng Cang và cao nhất là đỉnh núi bản Huổi Hưa, xã Mường Cai) độ dốc chung từ 250-300. Phần lớn là địa hình cao và dốc gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng; các khu vực bằng và thung lũng chiếm tỉ lệ nhỏ phân bố rải rác tạo ra tiểu vùng khí hậu phù hợp với nhiều loại cây trồng, con giống khác nhau.

- Từ Thành phố Sơn La đến trung tâm huyện Sông Mã 110 km đi theo đường Quốc lộ 4G. Từ Hà Nội đến huyện lỵ Sông Mã 300 km đi theo đường Quốc lộ 6, sau đó theo Quốc lộ 4G.

c. Khí hậu, thuỷ văn

- Nhiệt độ trung bình hằng năm khoảng 220c. Thường nóng nhiều vào các tháng 5, 6, 7 và lạnh nhiều vào các tháng 12 và tháng 1 năm sau. Thường nắng nhiều vào các tháng 4, 5, 6. Thường mưa nhiều vào các tháng 6, 7, 8. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.419 mm.

- Các hiện tượng thời tiết đặc biệt, đặc trưng ở địa phương: Mùa khô kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau, chịu ảnh hưởng của gió tây khô nóng; tuy ít chịu ảnh hưởng của bão nhưng do địa hình phức tạp nên các tiểu vùng không khí khác nhau nên một số nơi thường xuất hiện gió lốc gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống. Đồng thời, do địa hình đồi núi dốc nên khi mưa thường bị xói mòn rửa trôi, sạt lở đất, lũ ống, lũ quét. Ngày 01/9/1975, trận lũ lịch sử dâng cao tới 9,5 m đã tàn phá phá hệ thống cầu đường, thuỷ lợi, làm sạt lở hoặc vùi lấp nhiều ha đất ruộng canh tác, cuốn trôi nhiều gia đình, giao thông gần như tê liệt hoàn toàn, Trung ương phải dùng máy bay để chở hàng cứu trợ cho nhân dân Sông Mã.

- Nguồn nước tự nhiên cho sản xuất và đời sống: Nguồn nước chủ yếu từ hệ thống Sông Mã, các phụ lưu, suối nhỏ dày đặc trên địa bàn.

- Diện tích: Tổng diện tích tự nhiên huyện Sông Mã là 163.992,3 ha. 

d. Lịch sử

* Thời Pháp thuộc (1884-1945):

Dưới thời Pháp thuộc (trước cách mạng tháng 8/1945) chưa có huyện Sông Mã, lúc đó ba vùng đất của Sông Mã thuộc ba châu khác nhau. Vùng Sốp Cộp là một tổng thuộc Mường Thanh (Điện Biên), vùng Mường Lầm thuộc Mường Muổi (Thuận Châu), vùng Mường Hung thuộc Mường Mụa (Mai Sơn).

* Sau Cách mạng tháng 8/1945 đến nay:

- Thay đổi địa giới hành chính huyện:

+ Ngày 07.3.1953 Khu ủy Tây Bắc quyết định tách ba vùng: Sốp Cộp (thuộc Điện Biên), Mường Lầm (thuộc Thuận Châu), Mường Hung (thuộc Mai Sơn) gộp lại thành lập châu mới là châu Sông Mã, thuộc tỉnh Sơn La.

+ Từ 1953 đến giữa năm 1962 gọi là châu Sông Mã; từ giữa năm 1962 đến nay gọi là huyện Sông Mã.

+ Thực hiện Quyết định số 105-CP ngày 13.3.1979 của Hội đồng Chính phủ, sáp nhập xã Mường Sai của huyện Mai Sơn vào huyện Sông Mã với diện tích tự nhiên là 3.136 km2.

+ Thực hiện Nghị định số 148/2003/NĐ-CP ngày 02/12/2003 của Chính phủ, điều chỉnh địa giới huyện Sông Mã để thành lập huyện Sốp Cộp, huyện Sông Mã hiện nay còn 19 đơn vị hành chính với tổng diện tích tự nhiên là 163.992,3 ha.

- Thay đổi địa giới, tên gọi đơn vị trực thuộc:

+ Tháng 3/1953 châu Sông Mã chuyển từ bản Lấu Ngày (xã Mường Lầm) về khu cánh kiến (nay thuộc xã Nà Nghịu) và đến đầu năm 1976 châu Sông Mã chuyển trung tâm từ khu cánh kiến (nay thuộc xã Nà Nghịu) về địa điểm mới (Thị trấn hiện nay).

+ Thực hiện Quyết định số 173-CP ngày 26.10.1961 của Hội đồng Chính phủ, giải thể xã Mường Cai thuộc châu Sông Mã và sáp nhập bản Co Phương vào xã Mường Và, các bản Huối Co, Na Don, Hin Khoang và bản Hin vào xã Chiềng Không, các bản Mường Cai, Huối Khe và Huối Sum vào xã Mường Lạn.

+ Thực hiện Quyết định số 13-BT ngày 13.4.1977 của Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, thành lập Thị trấn Sông Mã thuộc huyện Sông Mã.

+ Thực hiện Quyết định số 130-BT ngày 25.7.1978 của Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, xã Chiềng Ban được đổi tên thành xã Nậm Lạnh, xã Chiềng Đen đổi tên thành xã Nậm Ty, xã Pắc Ma đổi tên thành xã Bó Sinh.

+ Thực hiện Quyết định số 18-CP ngày 16.01.1979 của Hội đồng Chính phủ, cắt một số bản thuộc các xã Sốp Cộp, Chiềng Khoong, Mường Và, Mường Lạn thuộc huyện Sông Mã để thành lập một xã mới lấy tên là xã Mường Cai.

+ Thực hiện Quyết định số 04/HĐBT ngày 11.01.1986 của Hội đồng Bộ trưởng, chia xã Púng Bánh thành hai xã: Púng Bánh và Sam Kha.

- Di tích: Huyện Sông Mã có 02 di tích lịch sử được công nhận xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hoá cấp tỉnh:

+ Di tích Cây đa Mường Hung được công nhận xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hoá cấp tỉnh theo Quyết định số 1214/QĐ-UBND ngày 28.4.2006 của UBND tỉnh Sơn La về việc xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hoá cấp tỉnh.

+ Di tích Đền thờ Hai Bà Trưng (bản Nam Tiến, xã Chiềng Khương) được công nhận xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hoá cấp tỉnh theo Quyết định số 2636/QĐ-UBND ngày 11.11.2011 của UBND tỉnh Sơn La về việc xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hoá và danh lam thắng cảnh cấp tỉnh.

icon-date
Xuất bản : 09/04/2022 - Cập nhật : 11/06/2022