logo

Qua bài thơ Tràng giang tác giả muốn gửi gắm điều gì

Bài thơ Tràng giang được viết vào mùa thu năm 1939, cảm hứng sáng tác được khơi gợi từ hình ảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, bốn bề bao la, vắng lặng. Để biết được Qua bài thơ Tràng giang tác giả muốn gửi gắm điều gì? Mời các bạn cùng Top lời giải tìm hiểu nhé


Đề bài: Qua bài thơ Tràng giang tác giả muốn gửi gắm điều gì?

Trả lời:

Qua bài thơ Tràng giang tác giả muốn gửi gắm tâm trạng nỗi buồn nhớ quê hương, nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời và lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.

Qua bài thơ Tràng giang tác giả muốn gửi gắm điều gì?

>>> Xem thêm: Cảm xúc chủ đạo của bài thơ Tràng giang


Khái quát về tác giả, tác phẩm


1. Tác giả Huy Cận

* Tiểu sử

- Huy Cận (1919-2005) quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

- Thuở nhỏ ông học ở quê rồi vào Huế học hết trung học.

- Năm 1939 ra Hà Nội học ở Trường Cao đẳng Canh nông.

- Từ năm 1942, Huy Cận tích cực hoạt động trong mặt trận Việt Minh sau đó được bầu vào uỷ ban dân tộc giải phóng toàn quốc.

- Sau Cách mạng tháng Tám, giữ nhiều trọng trách quan trọng trong chính quyền cách mạng.

- Sau này ông làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phụ trách các công tác văn hóa và văn nghệ.

- Từ 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II và VII.

* Sự nghiệp văn học

- Phong cách nghệ thuật:

+ Huy Cận là nhà thơ lớn, một đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới với hồn thơ ảo não.

+ Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng triết lí.

- Tác phẩm chính:

+ Trước Cách mạng tháng Tám: Lửa thiêng, Kinh cầu tự, Vũ trụ ca

+ Sau Cách mạng tháng Tám: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Chiến trường gần đến chiến trường xa...

* Vị trí và tầm ảnh hưởng

- Huy Cận đã được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - năm 1996).

- Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.

- Ngày 23 tháng 2 năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.


2. Tác phẩm Tràng giang

a) Xuất xứ

in trong tập thơ Lửa thiêng (tập thơ đầu tay, sáng tác khoảng 1937 – 1940).

b) Hoàn cảnh sáng tác

Vào mùa thu năm 1939 khi đứng trước sông Hồng mênh mông sóng nước.

c) Thể loại

Thơ bảy chữ.

d) Phương thức biểu đạt

Biểu cảm.

e) Nhan đề

- Từ Hán Việt Tràng giang (sông dài) g gợi không khí cổ kính.

- Hiệp vần ang: tạo dư âm vang xa, trầm lắng, mênh mang.

→ Gợi không khí cổ kính, khái quát nỗi buồn mênh mang, rợn ngợp.

f) Lời đề từ

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

- Bâng khuâng: thể hiện được nỗi lòng của nhà thơ, thấy mênh mông, vô định, khó tả nổi cảm xúc trước không gian rộng lớn.

- Trời rộng được nhân hóa nhớ sông dài, cũng chính là ẩn dụ nỗi nhớ của nhà thơ.

- Thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả:

+ Nỗi buồn trước cảnh vũ trụ bao la bát ngát.

+ Hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, tâm sự của cái tôi cô đơn mang nhiều nỗi niềm.

→ Câu này là khung cảnh để tác giả triển khai toàn bộ cảm hứng.

g) Bố cục 

* 2 phần:

- Phần 1 (Hai khổ thơ đầu): Bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của nhà thơ.

- Phần 2 (Hai khổ thơ cuối): Tình yêu quê hương, đất nước thầm kín, sâu sắc.

h) Giá trị nội dung

Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên, nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, niềm khát khao hòa nhập với đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết.

i) Giá trị nghệ thuật

- Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và hiện đại.

- Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm.


Phân tích tác phẩm Tràng Giang - Mẫu số 1

Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông rất giàu chất suy tưởng, triết lý, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Tràng giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.

Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Đứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh "sóng gợn" gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nỗi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. Con sóng ở giữa một dòng sông dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lòng không biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ông và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu

Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió, làng, chợ, bến" để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vật trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm mới.

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu

Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ "đùn" cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nỗi buồn của ông, giống như nỗi buồn của ông tích tụ như núi cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim.

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Tác giả đã dùng từ láy "dợn dợn" để diễn tả những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắc cho thấy nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi.

Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam.


Phân tích tác phẩm Tràng Giang - Mẫu số 2

Phong trào Thơ Mới đánh dấu tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó phải kể đến Huy Cận- một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của Huy Cận đều chất chứa những nỗi buồn miên man, sầu bi của nhà thơ trước thời đại, trước xã hội mà ông đang sống. Đằng sau những nỗi sầu ấy là tiếng lòng của một con người yêu nước. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.

Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước cảnh bật bao la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được giãi bày tự nhiên:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy, chảy trôi.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Hình ảnh đối lập “thuyền về - nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình.

Tưởng như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui ủi an. Nhưng sang khổ thơ thứ hai, nỗi sầu càng lớn thêm nhiều chút, thấm sâu vào cảnh vật:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều

Cặp từ láy tượng hình “lơ thơ” “đìu hiu” gợi bao buồn vắng, quạnh quẽ, cô đơn. Như tự nhiên vốn có, không gian chợ búa gợi sự đông vui, tấp nập, nhưng trong đoạn thơ, hình ảnh chợ xuất hiện mà chẳng thấy chút hơi ấm của cuộc sống, tiếng cười nói, mua bán của con người. Vạn vật như nằm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, không gian cũng được mở rộng cả chiều kích sâu rộng:

“Nắng xuống trời lên, sâu chót vót

Sông dài trời rộng, bến cô liêu”

Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá cho thấy được chiều kích vô cùng của không gian. “Sâu chót vót” gợi sự thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Càng rộng, càng cao, càng sâu bao nhiêu thì cảnh vật càng buồn vắng, lẻ loi bấy nhiêu. Sông tuy dài mà bến bờ cô lẻ, nỗi buồn như mở rộng theo chiều kích không gian, thấm sâu trong từng hơi thở.

Theo mạch cảm xúc của hai khổ thơ trước, khổ thơ thứ ba càng khắc sâu thêm nỗi buồn tuyệt đối:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cần gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh cánh bèo gợi sự vô định, lênh đênh. Những cánh bèo trôi dạt liên tiếp “hàng nối hàng” không nơi bấu víu, chẳng chốn trở về hay chính là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, đơn độc, mất phương hướng lúc bấy giờ. Sông nước mênh mông, dài rộng, không có lấy một chuyến đò đi qua, cây cầu bắc ngang cũng chẳng thấy nên dù muốn nhưng nào có chút hy vọng mong manh về sự gắn kết với con người. Tất cả dường như đang chống đối với lòng người, kẻ cô đơn đang khao khát giao cảm, thấu hiểu, sẻ chia lại không có một chút tình đời, tình người ở lại.

Khổ thơ cuối bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn sâu lắng của lòng người:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh mặt trời tạo hoá trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ. Giữa không trung là cánh chim bé nhỏ đang đơn độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương. Hình ảnh đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ càng tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng, khoáng đạt.

Trước cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết, cồn cào:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Trong thơ Đường Thi cũng đã từng viết:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.

Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà thương nỗi nhớ quê nhà. Trong “Tràng giang”, nỗi nhớ quê hương của Huy Cận dường như thường trực, dai dẳng và mãnh liệt hơn bởi “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Không vì bất cứ điều gì mà nỗi nhớ vẫn “dợn dợn” trong lòng thi nhân, đó chính là biểu hiện của tình yêu quê hương nói riêng và tinh thần yêu nước nói chung.

Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,... Qua bài thơ, ta thấy được một nỗi buồn vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc đời.

icon-date
Xuất bản : 02/06/2022 - Cập nhật : 02/06/2022