logo

Phân tích triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Hướng dẫn lập Dàn ý triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm ngắn gọn, chi tiết, hay nhất. Với các bài dàn ý và văn mẫu được tổng hợp và biên soạn dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 


Dàn ý triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn

Phân tích triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Toploigiai

I. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm.

- Sơ lược về triết lí nhân sinh trong bài thơ " Nhàn".

II. Thân bài

- Hoàn cảnh sáng tác, thể loại.

- Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn lánh đục, tìm trong về sống gần gũi làng quê bình dị để giữ lại cốt cách thanh cao.

- Triết lí nhân sinh ở đời: Cái đẹp trong tâm hồn mới là điều quý giá, công danh, phú quý như một giấc mơ.

- Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn sống thong thả, ung dung, với những sinh hoạt rất đời thường và thú vui tao nhã.

- Ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên, giản dị, cách ngắt nhịp đặc biệt diễn tả lối sống nhàn tản, thư thái.

- Nguyễn Bỉnh Khiêm mượn điển tích trong truyện đời Đường, so sánh "phú quý" giống như "chiêm bao" để bộc lộ thái độ xem thường phú quý.

III. Kết bài

- Khẳng định triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Suy nghĩ của bản thân về hai câu thơ cuối.


Bài Văn Mẫu 1 - Phân tích triết Lí Nhân Sinh Trong Bài Thơ Nhàn

Phân tích triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Toploigiai (ảnh 2)

   Sống an nhàn, tự tại nơi làng quê, không bon chen phú quý là lối sống mà Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn khi quyết định cáo quan về quê. Bài thơ Nôm "Nhàn" rút trong tập "Bạch Vân quốc ngữ thi" như gửi gắm tâm sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm đồng thời thể hiện quan niệm sống, cốt cách thanh cao và triết lí nhân sinh sâu sắc. Hai câu thơ cuối bài đã tập trung quan niệm triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm: công danh, phú quý như một giấc mơ thoảng qua, cái đẹp trong tâm hồn mới là điều quý giá vĩnh viễn.

" Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao"

    Đời như một giấc một giấc mơ, chỉ người trong cuộc hiểu rõ bản thân đang đi tìm điều gì? Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng Nguyên, làm quan dưới triều Mạc, giấc mơ công danh bao người theo đuổi mà vị Trạng Trình ấy đã đạt được. Ông dâng sớ xin chém lộng thần nhưng không được chấp thuận nên cáo quan về ở ẩn, lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Ông chọn lánh đục, tìm trong về sống gần gũi làng quê bình dị như một " lão nông tri điền" để giữ lại cốt cách thanh cao. Ông cũng nhận ra triết lí nhân sinh ở đời, cái đẹp trong tâm hồn mới là điều quý giá, chứ không hư ảo như phú quý, công danh. Cái nhìn sáng suốt, uyên thâm ấy được gửi trọn vào những câu thơ thất ngôn bát cú Đường luật trong bài "Nhàn". Nguyễn Bỉnh Khiêm có được mọi thứ rồi lại từ bỏ, người ta cho ông là dại nhưng ông nhìn họ mới thực sự "dại" khi đuổi theo "chiêm bao", u mê không tỉnh.

     Ở một nơi vắng vẻ, tĩnh lặng, Nguyễn Bỉnh Khiêm sống thong thả, ung dung, mỗi ngày trôi qua với những sinh hoạt rất đời thường, với những thú vui tao nhã "Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao". Ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên, giản dị, cách ngắt nhịp đặc biệt diễn tả lối sống nhàn tản, thư thái. Uống rượu, ngắm cảnh là thú vui tao nhã bao đời của thi nhân, ẩn sĩ nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm lại nhắc đến rượu cùng với địa điểm "cội cây" để rồi bộc bạch "phú quý tựa chiêm bao" và ông chọn làm người ngoài cuộc "nhìn xem" mà thôi. Hai câu thơ cuối đồng nhất với ý nguyện sống nhàn, làm người đứng ngoài "chốn lao xao", đứng ngoài nhìn người tranh giành danh lợi, phú quý. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nhắc đến điển tích Thuần Vu Phần để chốt ý, thể hiện triết lí nhân sinh của mình. Thuần Vu Phần là một viên tướng tài, do xúc phạm thống soái, bị quở mắng nên từ chức về nhà, lấy uống rượu làm niềm vui. Một lần Thuần Vu Phần say rượu, ngủ bên gốc cây hòe, mơ thấy mình làm phò mã của vua nước Hòe, được hưởng hết vinh hoa phú quý ở đời. Tỉnh dậy, ông mới biết là mơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm mượn điển tích trong truyện đời Đường để bộc lộ thái độ của mình. Ông coi chốn quan trường như giấc chiêm bao, hư ảo. Lánh đời là cách chọn bấc đắc dĩ của hầu hết những bậc làm quan trong thời cuộc có dấu hiệu suy vong, quan lại sâu mọt. Lời thơ tự nhiên không hoa mĩ, không có quá nhiều biện pháp nghệ thuật nhưng gửi gắm điều đáng suy ngẫm. Cách so sánh "phú quý" giống như "chiêm bao" chứng tỏ ông xem thường phú quý và bả lợi danh đưa con người vào bước đường đánh mất nhân cách.


Bài Văn Mẫu 2 - Phân tích triết Lí Nhân Sinh Trong Bài Thơ Nhàn

    Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

     Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.

Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dù ai vui thú nào

    Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền

Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người kiếm chốn lao xao

    Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực: một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghể, một bên là Người; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa “Người đời tỉnh cả, một mình ta say” đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhích môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn - dại. Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

    Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hòa hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm “độc thiện kỳ thân” của các nhà nho, đồng thời có nét gần gũi với triết lí “vô vi” của đạo Lão, “thoát tục” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hòa hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hòa hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

    Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình:

Ở thế mới hay người bạc ác

Giàu thì tìm đến, khó thì lui

(Thói đời)

    Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.

    Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.

 

---/---

Như vậy Top lời giải đã trình bày xong bài văn mẫu triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em học tốt môn Văn!

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 05/02/2021