logo

Phân tích Trao duyên học sinh giỏi

Tham khảo Phân tích Trao duyên học sinh giỏi, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận ngắn gọn, chi tiết, hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!

 Chắc hẳn các bạn đã từng nghe đến tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhưng có lẽ vẫn có người chưa hiểu hết rõ về tác phẩm đặc biệt là đoạn trích “Trao duyên”. Dưới đây là bài phân tích Trao duyên dành cho học sinh giỏi. Hi vọng sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình nắm bắt tác phẩm.


Tóm tắt sơ lượt về trao duyên

Truyện Kiều là một tác phẩm vô cùng dài, do đó mình sẽ tóm tắt về đoạn trích Trao duyên trước để mọi người nắm sơ về nội dung của đoạn trích

1. Tìm hiểu xuất xứ

Đây là một trong những đoạn ở vị trí mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đầy đau khổ của Thuý Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt giam do có kẻ vu oan, Thuý Kiều phải bán mình làm vợ Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót quan lại cứu cha và em. Việc nhà đã tạm yên, Kiều mới nghĩ đến tình duyên lỡ dở của mình. Trước hết, nàng nghĩ cho người mình yêu, phận mình dù thế cũng đành, nhưng cảm thấy có lỗi với Kim Trọng. Phải làm thế nào cho người yêu đỡ khổ, suy nghĩ mãi, trong đêm cuối cùng, nàng quyết định nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

Đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 trong Truyện Kiều.

2. Tìm hiểu bố cục đoạn trích

Gợi ý:

Có thể chia đoạn trích làm hai đoạn nhỏ:

- Đoạn 1 (14 câu đầu): Thuý Kiều “trao duyên” cho Thuý Vân.

+ Kiều nói với em về nỗi bất hạnh của mình.

+ Nhờ em và trao kỉ vật tình yêu cho em.

- Đoạn 2 (20 câu còn lại): Tâm trạng Kiều sau khi “trao duyên”.

+ Kiều mong muốn “trở về” gặp lại người yêu.

+ Kiều hướng đến sự đồng cảm với người yêu.

+ Tâm trạng tuyệt vọng của Kiều bởi mâu thuẫn trong tâm hồn nàng (tình yêu sâu nặng và sự chia biệt vĩnh viễn) vẫn không thể giải quyết.

3. Phân tích nghệ thuật xây dựng lời thoại và độc thoại của nhân vật

Đoạn trích là một đoạn lời thoại hoàn chỉnh của nhân vật. Nhưng tính chất đối thoại đổi thay dần theo diễn biến tâm lí và cảm xúc của Kiều. Thoạt đầu xưng hô “chị em”; nhưng từ dòng 15 đến dòng 26, Kiều cảm thấy hạnh phúc đời mình đến đây chấm dứt nên tự xưng mình là “người mệnh bạc”, “người thác oan”, “hồn”. Từ dòng 27 cho đến hết, Kiều như quên đang nói với em, chuyển sang nói với Kim Trọng đang vắng mặt, đó là lời đối thoại đau đớn với người yêu trong tưởng tượng. Dòng 27 – 28 là lời than, dòng 29 – 30 là lời nói với Kim Trọng trong tưởng tượng, dòng 31 – 32 lại là lời than, dòng 33 – 34 lại nói với Kim Trọng trong tưởng tượng. Ở đây, dấu hiệu độc thoại nội tâm là người đối thoại trực tiếp (Thuý Vân) không hiện diện nữa. Cho dù Thuý Vân vẫn còn ngồi ở đó, nhưng lời của Kiều không hướng tới nàng. Kiều lúc này chỉ sống với chính mình, với người yêu của mình nên lời nàng hướng vào nội tâm, thể hiện nỗi đau đớn đến quằn quại của riêng nàng. Ở vào trạng thái đau đớn đến cùng cực, người ta mất luôn ý thức về thực tại. Lời độc thoại này có tác dụng thể hiện trạng thái tâm lí ấy. Và giọng thơ từ chỗ đau đớn bỗng oà thành tiếng khóc: “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! – Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !”

4. Bình luận về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong đoạn trích

Gợi ý: Nguyễn Du đã thể hiện một nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tinh tế, điêu luyện.

Thuý Kiều nhờ em gái là Thuý Vân thay mình lấy một người mà em chưa thực quen biết. Dù Thuý Vân tính tình đơn giản thế nào thì yêu cầu này cũng quá ư đột ngột, bởi đây là chuyện quan hệ đến cả một đời người. Vì thế lời của Kiều vừa trông cậy, vừa nài ép. Để thể hiện sắc thái này, Nguyễn Du đã rất công phu trong lựa chọn từ ngữ trong ngôn ngữ nhân vật: “cậy”, mời em “ngồi lên cho chị lạy”, rồi sẽ “thưa”,…

Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Kiều dùng “cậy” mà không dùng “nhờ” vì “cậy” có ý nói khó, vật nài buộc người khác phải nghe mình, không cho từ chối; còn nhờ thì tuỳ ý, không có ý nài ép. Kiều dùng “chịu lời” mà không nói “nhận lời”. “chịu lời” là nhận lời làm việc không do mình tự nguyện, hoặc một việc khó chối từ. Chữ “có” ở đây tuy được dùng với ý ướm hỏi cho lịch sự, nhưng thực chất là ép buộc: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Hai chữ “mặc em” nói rõ cái ý ép buộc.

5. Bi kịch tình yêu của Kiều được thể hiện như thế nào trong đoạn trích?

Bi kịch ở đây được hiểu là tâm trạng của một người biết rất rõ, ý thức rất rõ về nỗi đau khổ của mình mà không có cách nào để giải thoát được. Với Thuý Kiều, bi kịch tình yêu là nỗi đau về sự tan vỡ tình yêu hoàn toàn do khách quan đưa lại. Kiều thiết tha yêu Kim Trọng và mong muốn tình yêu được đẹp mãi, đã thề nguyền kết duyên trăm năm nhưng vì để cứu gia đình mà nàng phải phụ tình Kim Trọng. Biết rằng như thế sẽ rất đau khổ, trao duyên cho em cũng chỉ là một cách an ủi phần nào tình yêu với Kim Trọng mà thôi. Biết trước đau khổ mà không có cách nào giải thoát. Đó là nguồn cơn tâm trạng bi kịch của nhân vật trong đoạn trích.

6. Bình luận nhan đề

Gợi ý:

Chữ duyên theo giáo lí của nhà Phật là nguyên do tạo ra số phận, sau này được hiểu rộng hơn là sự định sẵn từ kiếp trước cho tình cảm của hai người (thường là tình cảm vợ chồng).

Duyên là một khái niệm có tính chất vô hình, do đó trao duyên là một điều khó khăn, nhất là với những người có đời sống nội tâm sâu sắc như Thuý Kiều. Trao duyên là một sự hi sinh rất lớn. Trước đó Kiều đã hi sinh tình yêu để làm bổn phận người con hiếu thảo: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nay, trao duyên cho Vân là hi sinh tình yêu của mình vì hạnh phúc của người mà mình yêu. Do vậy, hành động của Kiều làm cho hình tượng nhân vật trở nên cao cả hơn, đẹp đẽ và đáng khâm phục hơn.

Đầu tiên trước khi có thể viết được một bài phân tích hoàn chỉnh thì không thể thiếu được việc có một dàn ý chi tiết để dễ hiểu để chúng ta có thể làm bài tốt hơn. Mình sẽ hướng dẫn các bạn lập dàn ý phân tích đoạn trích “Trao duyên”


Dàn ý Phân tích trao duyên

1, Mở bài phân tích Trao Duyên

– Giới thiệu tác giả Nguyễn du và “Truyện kiều”: là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học trung đại và tác phẩm “Truyện kiều” là một kiệt tác

– Giới thiệu bài thơ Trao duyên và vị trí đoạn trích: là đoạn thơ mở đầu cho chuỗi bi kịch của Kiều và là đoạn thơ Thúy – Kiều gửi gắm trao mối duyên tình của mình cho Thúy Vân.

2, Thân bài phân tích bài Trao Duyên

a, Thúy Kiều giãi bày, nói lí do để trao duyên cho Thúy Vân( 12 câu thơ đầu)

– Đoạn thơ mở ra với một hiện tượng khác thường: em ngồi lên cho chị lạy rồi mới nói chuyện: “Cậy em, em có chịu lời/Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Những từ ngữ cậy, chịu, thưa nó thể hiện sự gửi gắm trân trọng đối với Thúy Vân. Hành động Thúy Kiều lạy em : thể hiện ẩn sâu là sự biết ơn khắc cốt ghi tâm, không bao giờ quên.

– Thúy Kiều đã dùng những lí lẽ để trình bày với em – Thúy Vân:

+ Trình bày hoàn cảnh khó xử của mình: tình yêu với Kim Trọng dang dở vì chuyện gia đình gặp tai họa.

+ Nhờ Vân chấp mối duyên tình thay mình. Một bên tình một bên hiếu Kiều đành phải hy sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu.

+ Thúy Kiều vẫn tiếp tục dùng những lí lẽ để thuyết phục em: Thúy Vân còn trẻ, vẫn còn tương lai phía trước, Hai người còn là chị em máu mủ thân tình, Thúy Kiều cho dù chết cũng vui lòng..

b, Thúy Kiều trao kỉ vật cho Vân và dặn dò em( 14 câu thơ tiếp):

– Thúy Kiều nói với em: “Duyên này thì giữ, vật này của chung” Tình yêu trao cho Thúy Vân, nhưng những kỷ vật thì là của Thúy Kiều với Kim Trọng. Thúy Kiều trao duyên nhưng lại không trao tình.

– Những kỷ vật được nhắc đến: chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn… đó là những vật minh chứng cho tình yêu của Kim Trọng – Thúy Kiều.

– Các từ: “ của chung” là của chàng Kim, của chị , đến nay là của em, “ của tin” là niềm tin của chị để cả trong đó.

– Trong lời dặn dò em Thúy Kiều nhiều lần nói đến mình là người mệnh bạc, nhiều lần nhắc tới cái chết. Cho thấy tâm trạng buồn, bi kịch nỗi đau tột cùng của Kiều khi trao duyên cho em.

c, Thúy Kiều hướng về tình yêu và chàng Kim( 7 câu tiếp theo):

– Trở về với hiện tại Thúy Kiều bị giằng xé giữa một bên là sự mất mát không còn tình yêu vì đã trao cho em và một bên là tình yêu mãnh liệt với chàng Kim( Trâm gãy, gương tan <> muôn vàn ái ân).

– Thúy Kiều hướng về chàng Kim nói lời xin lỗi vợi sự day dứt giày vò, đau khổ và khẳng định rằng tình yêu đẹp chỉ còn trong quá khứ.

– Thúy Kiều đau khổ đến tận cùng khi phải làm như vậy, nàng oán trách số phận mình “Phận bạc như vôi?”

– Thúy Kiều gọi Kim Trọng hai lần: “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!” đó là lời độc thoại. Thể hiện tình cảm mãnh liệt không thể kìm nén.

– Thúy Kiều từ biệt Kim Trọng: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” khẳng định mình đã phụ chàng Kim, Kiều là một người thân phận hẩm hiu nhưng nhân cách sáng ngời.

3, Kết bài phân tích bài thơ Trao Duyên

– Khái quát lại vấn đề: Bài thơ đã thể hiện rõ tâm trạng đau đớn xót xa của Thúy Kiều khi phải dứt mối duyên của mình trao cho em.

– Nghệ thuật: Miêu tả , phân tích tâm lí nhân vật: tinh tế, linh hoạt, chân thực….


Phân tích bài Trao duyên - Bài mẫu 1

1, Mở bài

Nguyễn Du là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học trung đại và truyện kiều là một trong những kiệt tác của ông, tác phẩm đã để lại giá trị nhân đạo vô cùng lớn cho thế hệ sau. Toàn bộ truyện kiều là một chuỗi dài bi kịch, đau khổ của cuộc đời Thúy Kiều và đoạn trích “ Trao duyên” là một trong những bi kịch nhỏ của cuộc đời nàng Kiều, Thúy Kiều đã chọn bên hiếu và hy sinh tình cảm của bản thân để cứu gia đình khỏi cảnh tai biến. Đoạn thơ đã diễn tả một cách sâu sắc diễn biến tâm lí của Kiều khi buộc phải trao duyên cho Thúy Vân để vẹn tròn chữ hiếu.

2, Thân bài

Đoạn thơ là mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đầy bi kịch của Kiều, đầu tiên là việc Kiều trao duyên cho Thúy Vân, để trao được duyên của mình với chàng Kim cho em Kiều cũng rất đau khổ và diễn giải lí do để thuyết phục Thúy Vân nhận duyên từ mình. Cảnh trao duyên diễn ra một cách lạ thường em ngồi lên cho chị lạy rồi mới nói chuyện: “Cậy em, em có chịu lời/Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Những từ ngữ như “cậy” là sự tin tưởng mà gửi gắm, “chịu” nghĩa là bắt buộc,thông cảm cho mình mà chịu chấp nhận, còn “thưa” là sự trang trọng, tất cả đã thể hiện sự tha thiết, khẩn khoản của Thúy Kiều với Thúy Vân. Hành động Thúy Kiều lạy em: thể hiện ẩn sâu là sự biết ơn khắc cốt ghi tâm, không bao giờ quên. Nàng đã đưa ra nhiều lí lẽ để trình bày với Thúy Vân và mong được sự chấp nhận của Thúy Vân vì Kiều đang ở trong hoàn cảnh khó xử gia đình gặp tai biến vì vậy nàng phải bán mình để cứu cha và em nhưng nàng còn đang mối tình dang dở với chàng Kim nên nhờ Vân chấp mối duyên tình thay mình. Một bên tình một bên hiếu Kiều đành phải hy sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu. Không chỉ vậy,Thúy Kiều vẫn tiếp tục dùng những lí lẽ để thuyết phục em: Thúy Vân còn trẻ, vẫn còn tương lai phía trước, Hai người còn là chị em máu mủ thân tình, Thúy Kiều cho dù chết cũng vui lòng.. Nhà thơ đã sử dụng cách nói dân gian để làm tăng sức thuyết phục cho lí lẽ của Kiều. Từ đó, cho thấy Thúy Kiều là một người con hiếu thảo đã hy sinh hạnh phúc của bản thân vì gia đình, mặc dù trong lòng nàng không dễ chịu gì khi phải hành động như vậy.

     Nếu như 12 câu thơ trên là những lí do mà Thúy Kiều trình bày lí giải để Thúy Vân chấp nhận hành động trao duyên của mình thì đến đây Thúy Kiều trao lại những kỉ vật của mình và chàng Kim cho em và dặn dò Thúy Vân:“Duyên này thì giữ, vật này của chung” Tình yêu trao cho Thúy Vân, nhưng những kỷ vật thì là của Thúy Kiều với Kim Trọng. Câu thơ đọc theo nhịp 4/4 như một tiếng khóc nấc của Thúy Kiều, một thứ ngôn thứ tình cảm. Những kỷ vật được nhắc đến trong đoạn thơ: chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn… đó là những vật minh chứng cho tình yêu của Kim Trọng – Thúy Kiều, nó chứng tỏ hai người đã có rất nhiều lời hẹn ước, tình cảm sâu nặng mà không thể nào diễn tả được. Nhà thơ đã sử dụng các từ: “ của chung” là của chàng Kim, của chị , nay là của em, “ của tin” là niềm tin của chị để cả trong đó, nó thể hiện tâm trạng tiếc nuối, đau đớn vì phải chia ly mối tình đẹp đẽ, lãng mạn.Trong lời dặn dò em Thúy Kiều nhiều lần nói đến mình là người mệnh bạc, nhiều lần nhắc tới cái chết. Cho thấy tâm trạng buồn, bi kịch nỗi đau tột cùng của Kiều khi trao duyên cho em. Qua đó cho thấy, nỗi đau bi kịch của Thúy Kiều rất nhân bản, rất đời thường, nhà thơ đã hóa thân vào nhân vật để hiểu được nhân vật và khắc họa thành công nội tâm nhân vật.

    Sau khi Thúy Kiều đã trao duyên cho em xong xuôi, nàng mới suy nghĩ đến hiện tại đến tình yêu của mình và chàng Kim. Thúy Kiều bị giằng xé giữa một bên là sự mất mát không còn tình yêu vì đã trao cho em và một bên là tình yêu mãnh liệt với chàng Kim( Trâm gãy, gương tan <> muôn vàn ái ân), nàng đau khổ vô cùng.Thúy Kiều hướng về chàng Kim nói lời xin lỗi vợi sự day dứt giày vò, đau khổ và khẳng định rằng tình yêu đẹp chỉ còn trong quá khứ: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân/Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”.Thúy Kiều đau khổ đến tận cùng khi phải làm như vậy, nàng oán trách số phận mình “Phận bạc như vôi?”. Nàng đã gọi Kim Trọng hai lần: “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!” đó là lời độc thoại, thể hiện tình cảm mãnh liệt không thể kìm nén. Trước đêm nàng từ biệt gia đình để theo Mã Giám Sinh, nàng đã nói hết những tâm tư tình cảm của mình với Thúy Vân, và trong thâm tâm đã từ biệt chàng Kim “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” khẳng định mình đã phụ chàng Kim, Kiều là một người thân phận hẩm hiu nhưng nhân cách sáng ngời.

3, Kết bài

     Đoạn “ Trao duyên” được trích trong truyện kiều đã thể hiện nỗi đau bi kịch của Thúy Kiều lên đến tột độ khi phải dứt mối duyên tình trao em. Ở nàng chữ tình và chữ hiếu thống nhất với nhau. Đồng thời, nhà thơ đã sử dụng nhiều hình ảnh miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật, kết hợp giữa chất trữ tình và chất bi kịch…. đã khắc họa được sâu sắc tâm trạng đau buồn và bi kịch của Thúy Kiều.


Phân tích bài Trao duyên - Bài mẫu 2

Sau đây là bài văn mẫu phân tích đoạn trích Trao Duyên ( trích Truyện Kiều, Nguyễn Du ). Các em không nên copy bài viết dưới mọi hình thức. Việc tự cảm thụ và làm văn là một cách rất tốt để mở rộng vốn từ và vốn sống của các em, làm cho tâm hồn chúng ta trở lên phong phú và trưởng thành hơn.


1. Mở bài phân tích bài Trao Duyên

     Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông có nhiều đóng góp xuất sắc cho nền văn học dân tộc với nhiều tác phẩm có giá trị và Truyện Kiều là một trong số những tác phẩm như thế. Truyện Kiều  được xem là một trong số những kiệt tác của văn học dân tộc Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung. Và có thể nói, đoạn trích Trao duyên (từ câu 723 đến câu 756) là một trong số những đoạn trích Truyện Kiều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc mọi thế hệ.

2. Thân bài phân tích đoạn trích Trao Duyên

     Như chúng ta đã biết, đoạn trích Trao duyên là lời của Thúy Kiều nói với Thúy Vân để nhờ Thúy Vân nối duyên với Kim Trọng để giữ trọn lời thề với chàng Kim.

     Mở đầu đoạn trích là lời của Thúy Kiều nhờ em Thúy Vân:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

     Với hai câu thơ cùng cách sử dụng từ ngữ cho thấy Nguyễn Du đã đặt Thúy Kiều ở vai dưới. Lời Thúy Kiều mở đầu bằng chữ “cậy” như một sự phó thác đầy tin tưởng. Đồng thời, tác giả còn sử dụng hàng loạt động từ “lạy”, “thưa” để diễn tả nỗi lòng của Thúy Kiều. Theo lẽ thường, Thúy Kiều là chị thì sẽ không bao giờ phải lạy, thưa em gái mình song ở đây, Thúy Kiều đã chấp nhận làm điều đó, bởi lẽ, Thúy Kiều đang phải nhờ vả em mình và trong hoàn cảnh lúc này của Kiều, có lẽ Thúy Vân là người duy nhất nàng có thể tin tưởng dựa vào để nhờ vả. Hành động ấy của Thúy Kiều đã phần nào diễn tả được nỗi lòng chua xót, ngậm ngùi của nàng trước cảnh tình duyên lỡ dở.

     Đồng thời, sau khi mở lời với Thúy Vân, Kiều đã giãi bày nỗi lòng mình với em, đó vừa như những lời tâm sự vừa như lí lẽ trao duyên của Thúy Kiều

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

     Dường như, đến đây người đọc đã hiểu ra rằng lời nhờ cậy của Kiều trong hai câu đầu là một sự phó thác mà Thúy Vân không thể từ chối được. Điều đó cũng đúng thôi, bởi lẽ chuyện tình của Thúy Kiều và Kim Trọng đang ở độ đương thì, ngọt ngào viên mãn, ấy vậy mà bỗng chốc “đứt gánh tương tư” thì thử hỏi làm sao Kiều không chua xót cho được. Và bởi vậy, Thúy Kiều chỉ có thể trông chờ Thúy Vân “chắp mối tơ thừa”. Hai tiếng “mặc em” cất lên như một sự phó thác đầy thiết tha, khẩn cầu của Kiều. Để rồi, cứ thể, Kiều mở lòng mình, kể với em về chuyện tình với chàng Kim:

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

     Với hình ảnh “quạt ước”, “chén thề” Thúy Kiều muốn khẳng định tình cảm gắn bó, sâu nặng giữa nàng và Kim Trọng. Đồng thời, qua đó càng thể hiện nỗi đau của Thúy Kiều khi phải trao duyên cho em. Trao duyên cho Thúy Vân là điều Thúy Kiều chưa từng nghĩ tới, hơn ai hết, nàng biết đấy là tình thế khó xử đối với cả nàng và em, nhưng vì hoàn cảnh đưa đẩy “sóng gió bất kì”, nàng phải đứng giữa sự lựa chọn đầy khó khăn giữa tình và hiếu và cuối cùng, nàng phải hi sinh tình yêu của bản thân mình, để hoàn thành chữ hiếu, bán mình chuộc cha. Bởi vậy, nàng không còn có sự lựa chọn nào khác ngoài việc nhờ em nối duyên với Kim Trọng.

     Thêm vào đó, để tăng thêm sức thuyết phục trong lời nhờ cậy của mình, Thúy Kiều đã khôn khéo, tinh tế gửi vào trong đó hoàn cảnh của Thúy Vân:

Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương tan

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

     Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến tuổi xuân của Vân còn dài, còn nhiều hi vọng ở phía trước. Để rồi từ đó, viện dẫn tới tình chị em “tình máu mủ” và cái họa khi bán mình chuộc cha của mình “thịt nát xương tan”, “ngậm cười chín suối” Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào thế không thể từ chối. Tất cả những điều đó đã thể hiện được sự sắc sảo, tinh tế và khôn khéo trong con người Thúy Kiều.

     Như vậy, mười sáu câu đầu bài thơ là lời nhờ cậy, giãi bày, thuyết phục của Thúy Kiều với Thúy Vân trước một sự việc hệ trọng mà nàng sắp thực hiện – bán mình chuộc cha và em. Để rồi, trong mười bốn câu thơ tiếp theo, Thúy Kiều đã trao kỉ vật tình yêu và dặn dò Thúy Vân

Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

     Có thể nói, chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền là  những kỉ vật thiêng liêng, là minh chứng chứng giám cho tình yêu son sắt của Thúy Kiều và Kim Trọng. Ấy vậy mà giờ đây, Thúy Kiều phải trao lại cho em. Thử hỏi làm sao nàng không  đau đớn, không xót xa cho được? Hành động trao kỉ vật của Thúy Kiều đau xót là thế nhưng chắc hẳn chúng ta sẽ càng xót xa hơn trước những lời mà Kiều dặn dò em – “Duyên này thì giữ vật này của chung” hay “Mất người còn chút của tin”. Có thể dễ dàng nhận ra, “duyên này” chính là tình cảm của Thúy Kiều và Kim Trọng còn “của chung” chính là đề cập đến những kỉ vật trước giờ là của Kiều và Kim, còn bây giờ của cả Thúy Vân nữa. Hai tiếng của chung cất lên mới thật đau đớn, xót xa làm sao. Dường như, câu thơ còn giấu trong nhịp điệu của nó một nỗi đau sâu kín của nàng Kiều. Và có lẽ, càng xót xa hơn trước lời Thúy Kiều dặn Thúy Vân khi nàng nghĩ về tương lai mịt mờ, bất hạnh của mình ở phía trước

Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin chén nước cho người thác oan.

     Sử dụng các từ ngữ giả định “mai sau”, “dù có” cùng với việc sử dụng các hình ảnh thuộc về cõi chết “nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”, “hồn”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” Thúy Kiều đã nghĩ tới tương lai bất hạnh của mình nơi cõi âm đầy ma mị. Thêm vào đó, nhịp thơ chậm rãi, thiết tha, não nùng làm cho lời thơ như tiếng khóc não nùng, có nén lại để không bật lên thành lời. Tất cả những điều đó đã góp phần diễn tả nỗi đau tột cùng của Thúy Kiều khi trao kỉ vật cho Thúy Vân. Đồng thời, qua đó, giúp chúng ta cảm nhận được tình cảm thủy chung, sâu nặng của Thúy Kiều và Kim Trọng.

     Từ mộng mị của tương lai mờ mịt, Thúy Kiều trở lại với thực tại đau xót và bày tỏ nỗi niềm, tâm trạng của mình với chàng Kim qua những vần thơ da diết

Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng

Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

     Những vần thơ trên chính là lời độc thoại của Thúy Kiều với chính mình. Hơn ai hết, Thúy Kiều ý thức được thực tại của bản thân với biết bao tan vỡ, lỡ dở, nổi trôi của tình duyên và số phận con người. Tất cả những điều đó được thể hiện rõ nét qua việc sử dụng hàng loạt các thành ngữ “trâm gãy bình tan”,“hoa trôi lỡ làng”,“phận bạc như vôi”. Dường như, tất cả nỗi đau của Thúy Kiều dồn nén từ đầu đoạn trích đã lên đến đỉnh điểm khi nàng cất lên tiếng gọi xé lòng:

Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

     Ở đây, cách gọi Thúy Kiều dành cho Kim Trọng đã có sự thay đổi. Thúy Kiều không đơn thuần gọi Kim Trọng bằng tên mà thay vào đó gọi là “lang”, điều đó có nghĩa là với Thúy Kiều, Kim TRọng không còn đơn thuần chỉ là người yêu mà tận sâu trong trái tim nàng, nàng và Kim Trọng đã nên duyên mà dù sống hay chết, điều đó cùng không thể thay đổi. Lời thơ vừa thể hiện nỗi đau xé ruột của Thúy Kiều nhưng qua đó cũng giúp chúng ta nhận thấy sự son sắt, chung thủy trong tình yêu mà Kiều dành cho chàng Kim.

3. Kết bài

Tóm lại, đoạn trích với việc sử dụng hình thức độc thoại và cách sử dụng từ ngữ độc đáo đã thể hiện bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều. Đồng thời, qua đó, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du khi cất lên tiếng kêu đau đớn của tác giả về số phận con người trong xã hội phong kiến và tài năng của ông trong việc miêu tả tâm lí nhân vật.

---/---

Như vậy, Top lời giải đã vừa cung cấp những dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay Phân tích Trao duyên học sinh giỏi để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn !

icon-date
Xuất bản : 05/04/2021 - Cập nhật : 06/04/2021