Đáp án cho câu hỏi Phân tích nội dung của nguyên tắc lịch sử cụ thể. Cho biết trong thực tiễn, anh/ chị đã vận dụng nguyên tắc đó như thế nào chính xác, dễ hiểu nhất.
Câu hỏi: Phân tích nội dung của nguyên tắc lịch sử cụ thể. Cho biết trong thực tiễn, anh/ chị đã vận dụng nguyên tắc đó như thế nào?
Trả lời:
1. Phân tích nội dung:
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đặc trưng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong điều kiện, môi trường cụ thể, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Điểm xuất phát của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là sự tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng diễn ra trong không gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác nhau thì các mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật, hiện tượng cũng khác nhau, bởi vậy không chỉ nghiên cứu chúng trong suốt quá trình, mà còn nghiên cứu chúng trong các không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể khác nhau đó.
Theo triết học Mác - Lênin, lịch sử phản ánh tính biến đổi về mặt lịch sử của thế giới khách quan trong quá trình lịch sử - cụ thể của sự phát sinh, phát triển, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng; biểu hiện tính lịch sử cụ thể của sự phát sinh và các giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể, bao gồm mọi sự thay đổi và sự phát triển diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau trong không gian và theo thời gian khác nhau. Bởi vậy, nguyên tắc lịch sử cụ thể đòi hỏi, để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể; gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật, hiện tượng tồn tại.
Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt dộng thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể được V.I.Lênin nêu rõ và cô đọng, “xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”. Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó. Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là tái tạo sự vật, hiện tượng xuyên qua lăng kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh co, những gián đoạn, theo trình tự không gian và thời gian. Nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngặt của sự hình thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này là ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó; phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yêu, những đặc trưng chất và lượng vốn có của sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay thế nhau, mà còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ đỉnh, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng cũ trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Như vậy, chỉ khi đã tìm được mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các trạng thái chất lượng, tạo nên lịch sử hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu; tạo nên các quy luật quy định sự tồn tại và chuyển hóa của nó, quy định giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển khác cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hóa thành trạng thái khác, hay thành các mặt đối lập của nó, thì mới có thể giải thích các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc thù của nó, nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tượng và từ đó mới có định hưóng đúng cho hoạt động thực tiễn của con ngưòi. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức, nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của quá trình đó vào trình độ phát triển của xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và các thành tựu khoa học trước đó.
Sự kiện tuy có vai trò quan trọng đối với nguyên tắc lịch sử - cụ thể nói riêng và đối với các nguyên tắc khác nói chung, nhưng nguyên tắc lịch sử - cụ thể không kết hợp các sự kiện riêng lẻ, mô tả các sự kiện, mà tái hiện sự kiện, chỉ ra mối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện với nhau, khám phá quy luật và phân tích ý nghĩa và vai trò của chúng để tạo nên bức tranh khoa học về các quá trình lịch sử.
Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử - cụ thể là cần thấy các mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong những không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng; tránh khuynh hướng giáo điều chung chung, trừu tượng không cụ thể. Mặt khác, cũng cần đề phòng khuynh hướng tuyệt đối hóa tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình vận động, biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là điều tất yếu.
2. Vận dụng của bản thân
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử- cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng, mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình. Đối với học viên, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận đó vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng tươi đẹp.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong cuộc sống:
Chúng ta hiện nay đều là những tân học viên, khi mới nhập học hầu như là không quen biết nhau. Khi nhìn thấy 1 bạn nào đấy, chắc chắn chúng ta đều có những ấn tượng đầu tiên về ngoại hình, tính cách của bạn đó. Nhưng nếu chỉ qua 1 vài lần gặp mặt mà chúng ta đã đánh giá bạn là người xấu hoặc tốt, dễ tính hay khó tính. Cách đánh giá như vậy là phiến diện, chủ quan trái với quan điểm toàn diện. Điều có thể làm cho chúng ta có những quyết định sai lầm . Chẳng hạn như khi nhìn thấy một người có gương mặt ưa nhìn, ăn nói nhỏ nhẹ đã vội vàng kết luận là người tốt và muốn làm bạn, còn khi nhìn thấy một người ít nói, không hay cười thì cho là khó tính không muốn kết bạn. Qua một thời gian kết bạn mới nhận ra người bạn mà mình chọn có những đức tính không tốt như lợi dụng bạn bè, ích kỷ. Còn người bạn ít nói kia thực ra rất tốt bụng, hay giúp đỡ bạn bè. Ấn tượng đầu tiên chỉ quyết định đến quá trình giao tiếp về sau. Quan điểm toàn diện dạy cho ta biết rằng khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng phải xem xét đánh giá một cách toàn diện, mọi mặt của vấn đề để hiểu được bản chất thật sự của sự vật hiện tượng. Chúng ta không thể chỉ nhìn bề ngoài mà phán xét về phẩm chất, đạo đức của người đó.Vẻ bề ngoài không nói lên được tất cả, có thể bạn đó có gương mặt lạnh lùng nhưng tính bạn rất cởi mở, hòa đồng, dễ gần. Vì vậy muốn đánh giá 1 con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu dài, nhìn nhận họ trên mọi phương diện, ở từng thời điểm, từng hoàn cảnh khác nhau.
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con người. Đối với những người bề trên như ông, bà, bố, mẹ, thầy cô… thì chúng ta cần có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đối với bạn bè thì có những hành động, thái độ thoải mái, tự nhiên. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”. Ví dụ như khi xưa anh ta là người xấu, tính cách không tốt hay vụ lợi không nên giao tiếp chơi thân, nhưng hiện nay anh ta đã sửa đổi tính cách tốt hơn biết quan tâm mọi người không như xưa, chúng ta cần nhìn nhận anh ta khác đi, có thể cư xử khác trước, có thể giao tiếp, kết bạn với anh ta.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt . Khi ta học kém đi, điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười học, không hiểu bài, không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên nhân cụ thể, chủ yếu, thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong việc học tập:
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới có kết quả cao hơn. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học tập sẽ giúp định hướng học tập sâu hơn và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể là thế giới quan của mỗi con người.
Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các mặt của việc học một cách cụ thể, toàn diện, phù hợp với từng thời điểm :
- Học tập là suốt đời, học bằng cái gì: bằng mắt, bằng tai, bằng tay, bằng da, bằng mũi, bằng miệng, học cái gì trước, cái gì sau, học cái gì để biết, cái gì để làm, học để tồn tại, học để chung sống với con người, với vạn vật, với muôn loài...
- Người học phải biết khiêm tốn, học phải hỏi, học ở mọi người.
- Nhiều thứ con người muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc thì phải tốn nhiều thời gian, kiên trì, kiên nhẫn. ví dụ như người trồng lúa: học biết các giống lúa, loại nào phù hợp vùng đất nào, thời tiết nào, những điều kiện và cách chăm bón đúng cách để đạt năng suất, khi phát hiện có sâu rầy phải giải quyết thế nào...
- Học phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Người xưa vẫn dạy rằng:
“Trăm hay không bằng tay quen”. Lao động thời nào cũng vậy, phải luôn ý thực là lí thuyết hay cũng không bằng thực hành giỏi. Vai trò của thực hành được đề cao là điều hiển nhiên. Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được hiểu khác hơn, học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau. Trước hết ta cần hiểu : “học” là tiếp thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã được đúc kết trong các bộ môn khoa học, đồng thời tếp nhận những kinh nghiệm của cha anh đi trước. “Học” là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự hiểu biết của mình, không để tụt lùi, lạc hậu. “Học” là tìm hiểu, khám phá những tri thức của loài người nhằm chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Còn “hành” nghĩa là làm, là thực hành, là ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên học và hành có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một qua trình thống nhất, nó không thể tách rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một.
Chúng ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập. Một khi đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta không vận dụng vào thực tiễn, thì học cũng trở nên vô ích. Có nhiều bạn trẻ khi rời ghế nhà trường vào một nhà máy, một cơ quan… Lúng túng không biết phải làm công việc mà chuyên môn mình đã được học như thế nào? Dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi là sự hoang mang, chán nản. Nguyên do dẫn đến việc “học” mà không “hành” được là do học không thấu đáo, khi còn ngồi trên ghế nhà trường không thật sự chuyên tâm, rèn luyện, trau dồi kiến thức hoặc thiếu môi trường hoạt động.
Ngược lại nếu hành mà không có lí luận, lí thuyết soi sáng và kinh nghiệm đã được đúc kết dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, thậm chí có khi còn dẫn đến những sai lầm to lớn nữa. Do vậy việc học tập, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm là nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực tế, thực hành trong thực tiễn cuộc sống.
Một thực tế cho thấy, sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực tiễn ở các trường phổ thông đã khiến các học viên tương lai không biết nên lựa chọn ngành học nào trước mùa thi. Đa số các em không biết sử dụng những kiến thức đã được học vào việc gì ngoài việc để... thi đỗ đại học
Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” không đi đôi với “hành” là có nhiều học sinh, học viên đạt kết quả học tập rất cao nhưng vẫn ngơ ngác khi bước vào cuộc sống, nhiều thủ khoa sau khi ra trường, va vấp cuộc sống mới tự hỏi: “Không biết việc chọn trường chọn ngành của mình đã đúng hay chưa?”. Nhất là khi xã hội đang cần những người có tay nghề cao phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì việc “Học đi đôi với hành” càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
- Tuy nhiên, nếu chỉ chăm vào học tập thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải rèn luyện cả về phẩm chất, đạo đức như Bác đã từng dạy “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” Tài và đức là những phẩm chất khác nhau nhưng luôn luôn gắn bó mật thiết không thể tách rời. Có tài mà không có đức là người vô dụng, bởi tài năng đó không phục vụ cái chung mà chỉ mưu cầu lợi ích cho một cá nhân thì cũng trở thành vô giá trị. Con người ta không thể sống một mình, không thể tách rời khỏi gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, nhân dân, nhân loại. Giá trị một con người được xem xét chính bởi tác dụng của cá nhân đó trong mối quan hệ với đồng loại. Người không có đức là người không quan tâm đến quyền lợi của người khác. Nếu có tài, họ cũng chỉ vun vén để có lợi cho riêng họ. Người có tài mà phản bội Tổ quốc, đi ngược lại lợi ích của tập thể thì chẳng những vô dụng mà còn có tội. Người càng có tài mà kém đạo đức thì tác hại mang đến cho gia đình, xã hội càng lớn.
Nhưng nếu chỉ có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Có đức, có khát vọng hành động vì lợi ích của mọi người nhưng không có kiến thức, năng lực kém thì những ý định tốt cũng khó trở thành hiện thực. Tài năng giúp con người lao động có hiệu quả. Thiếu tài năng, người ta trở nên ít có tác dụng trong đời sống con người. Rõ ràng là giá trị con người phải bao gồm cả tài và đức. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho nhau thì con người mới trở nên toàn diện, mới đạt hiệu quả lao động cao và mới có ích cho mọi người.
Chúng ta hiện nay đang là những học viên, là những người đang trong quá trình phát triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên thời kì này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất, năng lực, cả đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia đình, nhà trường và xã hội để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai.