logo

[TOP 11] Phân tích người đàn bà hàng chài

“Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấm áp” (Nguyễn Văn Hạnh).


Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 1

          Khi nhắc đến Nguyễn Minh Châu không thể không nhắc đến tác phẩm nổi tiếng Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm đã khắc họa được hình tưởng người phụ nữ làng chài rất xuất sắc, là đại diện cho một trong những hình tượng người phụ nữ thời xưa.

          Người phụ nữ được nhắc tới trong Chiếc thuyền ngoài xa là người phụ nữ không có tên cũng không có tuổi. Cách để gọi người này là người đàn bà hàng chài”, “người đàn bà vùng biển” hay “mụ”. Đây là người phụ nữ có tuổi ngoài bốn mươi tuổi với dáng vóc cao lớn và thô kệch. Những chi tiết như khuôn mặt hiện lên đầy “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”, “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng…” đã cho thấy sự vất vả, tần tảo và lam lũ của người phụ nữ làng chài. Đây chỉ là đại diện cho những người phụ nữ ở làng chài đó. Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh. Những người phụ nữ làng chài đều có dáng vóc và ngoại hình giống nhau, chỉ có hoàn cảnh sống là khác. 

          Hoàn cảnh của người đàn bà hàng chài đã được Phùng - một nhiếp ảnh ra tình cờ nhìn thấy vào lúc đang chụp ảnh phong cảnh biển đẹp tuyệt vời ở nơi đây. Người đàn bà đó bị chồng của mình bạo hành. Không chỉ bằng lời nói, hắn còn dung hành động để bạo lực bà. Hắn rút chiếc thắt lưng da, vụt vào người bà tới tấp, nhưng một tiếng khóc, một cái chống trả hay hành động chạy trốn đều không có. Bà chỉ ngồi im và chịu đựng những cái đánh đó như đã là thói quen hàng ngày. Những cái đánh này chả có tí uy lực hay đau đớn nào do thân hình chịu nhiều tổn thương đã đày chai sạn. Những hành động diễn ra trong phút chốc khiến Phùng không kịp định hình, tới khi có một bóng dáng bé nhỏ lao tới bảo vệ mẹ mới khiến anh thoát khỏi nó. Cậu con trai thân hình nhỏ nhưng tình yêu thương mẹ không hề giống với ngoại hình của mình. Dù đã hết sức chống trả nhưng thân hình nhỏ bé sao có thể đấu được với thân hình cao to, vạm vỡ của cha mình. Cậu bé gục ngã chỉ sau hai cái tát của cha mình. Người mẹ thấy vậy liền lao tới ôm con và rơi nước mắt vì xấu hổ. Bị đánh, bị chửi không đau, không khóc nhưng chỉ cần nhìn thấy con bị đánh, bị đau là người mẹ không chịu được mà rơi nước mắt. Bà thấy xấu hổ vì để con mình phải chứng kiến và đấu tranh với cha mình để bảo vệ bà cũng như vì mình mà con bị đánh đau. Qua đây mới thấy được tình yêu con bao la của người đàn bà hàng chài giành cho con của mình. 

           Hình tượng người phụ nữ làng chài hiền lành, giàu đức hy sinh và giàu tình yêu thương càng được thể hiện rõ nét hơn ki được Đẩu mời đến tòa án. Dù không phải lần đầu đến tòa án nhưng người đàn bà ấy vẫn giữ dáng vẻ lúng túng, sợ sệt, khi vào phòng chỉ tìm một chỗ góc để ngồi. Không chỉ Phùng hay những người từng chứng kiến, Đẩu cũng rất giận dữ vì hành động bạo lực của người chồng của mụ. “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?” Giọng nói đầy phẫn nộ đã cho thấy sự kinh khủng của việc phải chịu đòn của người đàn bà hàng chài như thế nào. Thế nhưng khi Đẩu nói về chuyện ly hôn với chồng, người đàn bà đã có hành động không ai có thể ngờ được. Mụ chắp tay vái lia lịa về hướng Đẩu và nói: “Con lạy quý tòa … Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Không biết nên nói đây là hành động ngu xuẩn hay giàu tình yêu thương và nhân đạo nữa. Ai mà ở đó chắc cũng kinh ngạc không nói lên lời mất. Câu nói “tùy bà” của Đẩu đã cho thấy sự bất lực của ông. Thấy mọi người không bắt mình ly hôn nữa, người đàn bà liền quay sang cảm ơn họ và nhận hết mọi lỗi lầm về mình: “Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... ” Rồi sau đó mụ trải hết lòng mình với mọi người, kể những câu chuyện về cuộc đời và con người mình để mọi người có thể hiểu và cảm thông cho mình hơn.

          Như vậy, có thể thấy rằng hình tượng người đàn bà hàng chài đã được Nguyễn Minh Châu khắc họa một cách chân thực và rõ nét nhất. Một tác phẩm mà có đủ cả những góc tối và những điểm sáng chiếu rực xua tan đi cái tối tăm ấy. Đây có lẽ là tác phẩm mà rất đáng để mọi người đọc và suy ngẫm.


Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 2

[TOP 11] Phân tích người đàn bà hàng chài

          Tiên phong trong phong trào văn học đổi mới sau chiến tranh không ai ngoài cái tên Nguyễn Minh Châu nên cách nhìn về con người cũng mới. Hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa được xây dựng rất thành công với cái nhìn đa chiều.

          Người đàn bà hàng chài hiện lên trong lăng kính của Phùng, chiếc thuyền cập bờ người đàn bà nhìn tầm ngoài 40 tuổi, hình dáng cao, thô kệch còn khuôn mặt thì rỗ chính vì thời con gái cô ta bị bệnh đậu mùa. Nhà văn với cách miêu tả chân thực đã cho người đọc nhận thấy người đàn bà này chắc khỏe nhưng nhan sắc không được ưa nhìn. Chị ấy mặc trong người một chiếc áo cũ mèm, lưng bạc phếch với nhiều chỗ rách rưới. Nhìn vào khuôn mặt ấy hiện lên vẻ đầy mệt mỏi, xanh ngắt, đầu tóc rũ rượi, bơ phờ vì một đêm thức trắng đánh bắt, kéo lưới. Người đàn bà này qua một đoạn miêu tả, hành động của người chồng nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy được chị có một cuộc đời lam lũ, không mấy sung sướng, ngược lại là vô cùng cực khổ, đói nghèo, lam lũ, gánh nặng gia đình đè lên đôi vai của chị. Những ngày biển động, cả gia đình thiếu thốn ăn xương rồng luộc qua bữa.

          Hoàn cảnh nghèo khó, cơ cực một phần xuất phát từ chính gia cảnh đông con mà công việc lại bấp bênh vô cùng, trình độ lao động sản xuất còn kém nên toàn bộ phụ thuộc vào thời tiết mà kiếm sống. Nhìn thấu ở đây là nỗi niềm đau đáu nhân thế của tác giả trước cuộc sống nghèo đói của nhân dân sau chiến tranh. Chính vì cái nghèo khiến cho nhiều bi kịch xảy ra, điển hình ở đây là nạn bạo lực gia đình.

          Người đàn bà xuất hiện trong cảnh bạo lực qua lời văn diễn đạt của nhà thơ vô cùng sắc nét đầy bi thương. Khi chiếc thuyền cập bờ, chị ta bước đi về phía bãi cát thẳng đến chiếc xe tăng để rà mìn cũ. Theo sau chị ta là bóng dáng của một người đàn ông hung dữ, cầm trên tay chiếc thắt lưng to hùng hỗ lao nhanh đến quật vào lưng chị tới tấp không dừng. Hắn ta dùng hết sức mà đánh chị ta như có gì đó tức nghẹn, uất ức trong lòng, vừa đánh vừa buông lời chửi thậm tệ. Lạ thay, người đàn không một chút kháng cự, chống trả hay trốn chạy, một tiếng kêu cũng không có. Phùng từ xa chứng kiến cảnh tượng này đau xót đến rùng mình, anh kinh ngạc màn bạo lực man rợ đáng lên án này. Khi căm tức người đàn ông kia thì lại xót thương, cảm thông vô cùng cho thân phận người phụ nữ - nạn nhân của trận bạo hành đó. Chị ta vô cùng cam chịu, nhẫn nhục nuốt vào trong chấp nhận chịu đòn roi mà không một lời than trách. Hiện lên ở người đàn bà này cái thái độ chịu đựng rất khó hiểu, điều đó để lại ẩn số trong Phùng.

          Nhìn vào người đàn bà hàng chài này chúng ta có thể đồng cảm được rằng chị ấy không chỉ đau đớn về thể xác mà cả tinh thần, điều này thấy rõ ở chi tiết đứa con của chị ấy xuất hiện. Dù có bị người chồng đánh đến mức nào chị cũng chịu một mình mà không muốn cho các con thấy cảnh bạo lực này nhưng thằng Phác con chị hiểu chuyện, nó đã theo dõi từ trước nên khi nó xuất hiện chị có bất ngờ. Phác thấy ba đánh mẹ liền xông vào đánh ba để bảo vệ mẹ thì bị ba nó tát hai cái ngã dúi người rồi ông ta bỏ vào thuyền. Chị bàng hoàng, ngạc nhiên lại ôm thằng bé trong lòng rồi buông ra, ngồi bên cạnh lạy rồi khóc. Người đàn bà lộ rõ cảm xúc đau đớn tột cùng, có chút tủi hổ. Nỗi đau trào dâng khi nhìn cảnh gia đình mình bị xáo trộn, chồng đánh vợ, con đánh cha. Người mẹ đau nỗi đau khi bản thân để con phải chịu tổn thương, mất mát, để chúng không hưởng một cuộc sống gia đình bình yên, yêu thương. Chị xấu hổ vì đã che giấu tất cả, trước các con luôn giả vờ về mọi thứ, lời cảm ơn đến con được thay bằng cái ôm ấm áp hơi ấm vì đã chấp nhận mẹ dù thế nào rồi lạy để mong con sẽ tha thứ cho mình.

        Chuyện bạo lực này rồi cũng đến tai tòa án huyện, Đẩu – chánh tòa án huyện cho gọi người đàn bà này lên can thiệp, khuyên chị ly hôn. Dù cho lời lí giải của tòa có thuyết phục thì chị cũng van xin được từ chối. Chị nói “lòng các chú tốt nhưng các chú đâu phải là người làm ăn nên các chú đâu hiểu được điều các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Lúc này Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ. Vì với người chồng, chị mang ơn, người đàn ông này tuy cộc tính nhưng bản tính hiền lành, chỉ vì cuộc sống nghèo khó đẩy ông ta thành người vũ phu, dữ dằn. Hơn nữa chị nghĩ đến các con, cái ăn, cái mặc của chúng nên nhất quyết không chịu ly hôn vì nghề chài lưới luôn cần có người đàn ông gánh việc nặng. Làm sao có thể thấy chị hiểu và thương chồng, một người phụ nữ có tấm lòng vị tha, rộng lượng như vậy nếu không chứng kiến, nghe những lời kể từ tận đáy lòng của chị. Vì cuộc đời các con của mình, một người mẹ giàu lòng yêu thương, một người vợ thủy chung, son sắc, nhân hậu chấp nhận chịu đựng cuộc sống không hạnh phúc, chịu đòn roi từ người chồng và hơn thế nữa. Chị chấp nhận mình khổ cực nhưng không để các con mình phải thếu cha, thiếu ăn.

        Phùng sau khi nhìn mang trong lòng nỗi ám ảnh, cảm nhận về gia đình của người đàn bà này cũng chính là những trăn trở của nhà văn. Niềm tin, hy vọng số phận của gia đình chị ấy sẽ thay đổi tích cực hơn được tác giả gửi gắm vào đó. Nhân vật người đàn bà hàng chài được Nguyễn Minh Châu khắc họa vô cùng chân thực trong hình tượng lao động nghèo khổ ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ bất hạnh.


Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 3

Nguyễn Minh Châu - nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại, là người “mở đường tinh anh và tài hoa” văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của ông được viết sau chiến tranh, khi ấy ông đã đem văn học về gần với cuộc sống, ngòi bút của nhà văn bám sát vào hiện thực để làm nổi bật những vấn đề thế sự trong cuộc sống con người thời hậu chiến. Nhân vật người đàn bà hàng chài được tác giả khắc họa rất rõ nét và chân thực trong tác phẩm, một mặt để cho người đọc cảm nhận rõ sự thật cuộc đời, mặt khác lại thấy được những hạt ngọc đang ẩn giấu trong tâm hồn con người Việt Nam.

Giữa cảnh biển đẹp đẽ, hoàn mĩ như bức tranh mực tàu, người đàn bà hàng chài hiện lên vẻ ngoài lam lũ, tội nghiệp. Người đàn bà tuổi trạc ngoài bốn mươi, thân hình “cao lớn với những đường nét thô kệch”. Mụ rỗ mặt và khuôn mặt hiện rõ vẻ mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và đang buồn ngủ. Ngoại hình lam lũ, tội nghiệp là vậy, khi nhìn vào cảnh ngộ của người đàn bà này ta càng thêm xót xa, thương cảm. Chị ta phải chịu nhiều bất hạnh ngay từ khi còn trẻ. Thời còn con gái chị ta đã bị rỗ mặt do một trận đậu mùa khiến cho khuôn mặt trở nên xấu xí, khó lấy được chồng. Chị ta lỡ có thai với người con trai của một nhà hàng chài, từ đó theo chồng và gắn bó với nghề chài lưới, quanh năm suốt tháng lênh đênh trên biển.

 

Từ khi có gia đình, chị ta phải lăn lộn với cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn về vật chất và tủi nhục về tinh thần. Vì sinh đẻ nhiều, gia đình đông con mà thuyền lại chật, có những khi biển động gió lớn cả nhà chỉ đành ăn cây xương rồng luộc chấm muối. Không chỉ thiếu thốn về vật chất, chị ta còn là nạn nhân của bạo lực gia đình, thường xuyên hứng chịu những trận đòn roi vô lí của người chồng “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Chánh án Đẩu từng thốt lên rừng “cả nước không có một người chồng nào như hắn… chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”.

Trong hoàn cảnh khốn cùng, nghiệt ngã như vậy nhưng người đàn bà hàng chài vẫn giữ cho mình những phẩm chất quý giá. Đó là một người mẹ với tình yêu thương con vô bờ. Trong đám con đông đúc của mình, chị ta thương thằng Phác nhất, không muốn nó chịu khổ nên phải gửi nhờ ông ngoại nuôi dưỡng. Điều đầu tiên mà chị ta mong mỏi cho các con là có cuộc sống ổn định, không phải lênh đênh, chịu bấp bênh và khổ cực trên biển. Dù cuộc sống có cơ cực chị vẫn cố gắng để các con của chị không chỉ được no đủ mà còn bảo vệ đời sống tinh thần của các con không bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Khi các con lớn, chị đã “xin chồng lên bờ mà đánh” vì chị không muốn các con phải chứng kiến cảnh đau lòng đó.

Chị đã cố gắng hết sức để bảo vệ các con, thế nên khi thằng Phác lao vào đánh bố để bảo vệ mẹ, người đàn bà ấy như chết lặng. Chị ta cảm thấy tủi nhục và đau đớn, nhát quất của chồng trên da thịt không đau bằng sự xuất hiện của thằng con trai “như một viên đạn xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rơi xuống những dòng nước mắt. Chị ta đau vì cách hành xử của bố với mẹ đã làm tổn thương đến tâm hồn và nhân cách con trẻ, thằng bé dám thực hiện hành động độc ác ngay cả với cha đẻ ra nó là phản ứng tiêu cực.

Người đàn bà ấy còn có một tình yêu dành cho chồng sâu sắc. Vốn chị ta thương thằng Phác nhất cũng chính vì nó giống như lột cái lão đàn ông đã hành hạ chị, giống từ tính khí đến mặt mũi. Phải thừa nhận rằng cách hành xử thô bạo của chồng không làm cho chị ta thay đổi tình cảm của mình dành cho anh ta mà ngược lại vẫn nâng niu hình ảnh của người đàn ông ấy trong tình yêu của mình. Chị hiểu cho người đàn ông vì cuộc sống cơ cực nhiều bế tắc cần có cách để giải tỏa, nhưng chồng chị lại không biết uống rượu như những đàn ông khác. Dường như cách đánh vợ là cách duy nhất để giải tỏa những uất ức, chính vì thế khi con đã lớn, chị không yêu cầu chồng chấm dứt đánh những trận đòn mà chỉ xin chồng lên bờ mà đánh. Chị chấp nhận, cam chịu, nhẫn nhục để chồng có thể giải tỏa uất ức.

Ta nhìn thấy được một người đàn bà hàng chài giàu đức hy sinh vì con, vì chồng, vì gia đình. Trong cuộc sống cơ cực triền miên, chị ta luôn nhận lỗi về mình “phụ nữ trên thuyền đẻ nhiều quá”, điều đó còn bởi sự lạc hậu mà chị ta luôn miệng mong các chú cách mạng thông cảm cho. Niềm vui lớn nhất của chị là những lúc vợ chồng hòa thuận, đàn con được ăn no, đó là điều hiếm hoi nhưng người đàn bà luôn mong mỏi và trân trọng. Người đàn bà ấy đã xác định lẽ sống vì chồng, vì con, vì gia đình chứ không phải vì bản thân, quên hẳn những nhu cầu và đòi hỏi của cá nhân. Dù bị chồng đánh và đày đọa nhưng chị ta vẫn van xin không bỏ chồng, chấp nhận bị bắt tội, bị phạt tù. Nghĩa là dù người đàn ông ấy có độc ác, tàn bạo đến mấy chị vẫn cần để có người cùng chèo chống khi phong ba và hơn nữa là chị muốn giữ gìn cho các con một mái ấm gia đình trọn vẹn, đủ đầy.

Có thể nói, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa chính là người đàn bà hàng chài. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài dẫn dắt chúng ta đến với những góc tối tăm nhất của cuộc đời để nhìn nhận những sự thật gần ngay trước mắt. Trong nơi tối tăm ấy thứ ánh sáng duy nhất và đẹp đẽ nhất chính là phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn con người, tiêu biểu ở đây là phẩm chất cao đẹp của người đàn bà hàng chài.


Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 4

Người nghệ sĩ vốn là người suốt đời đi tìm cái đẹp, cái toàn mỹ toàn thiện. Thế nhưng không phải vẻ đẹp nào cũng đơn giản mà có thể nó còn ẩn giấu những sự thật không hoàn mỹ bên trong. Câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về bản chất của cuộc sống, nhìn sâu vào mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Một bức tranh thuyền và biển “toàn bích” nhưng lại ẩn chứa trong đó là số phận đau khổ của người lao động nghèo mà điển hình là người đàn bà hàng chài. Từ đó, ta có thể thấy được những giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả gửi gắm.

Chiếc thuyền ngoài xa là câu chuyện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong chuyến công tác đi tìm một bức ảnh cho bìa cuốn lịch mới. Trong chuyến đi đó, anh đã chọn nơi chiến trường cũ của mình để tìm nguồn cảm hứng và quả thực, anh đã có được một bức ảnh để đời, một bức ảnh với vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”. Thế nhưng, khi anh vốn tưởng rằng mình đã “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện” thì một cảnh bạo lực gia đình, chồng đánh đập vợ một cách dã man đã diễn ra ngay trước mắt anh, mà đôi vợ chồng đó lại chính là những người bước ra từ con thuyền đẹp đẽ vừa nãy. Phùng đã vô cùng ngạc nhiên khi người vợ, người đàn bà hàng chài ấy không chút phản kháng, mụ để mặc cho người chồng đánh mình trong sự giận dữ tột độ. Có lẽ lúc đó, Phùng cũng tự hỏi như chúng ta, người đàn bà hàng chài đó là người như thế nào? Tại sao lại cam chịu trận đòn roi một cách nhẫn nhịn như thế?

Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua lời giới thiệu của Phùng. Đọc đến hết câu chuyện, người ta vẫn không hề biết tên người đàn bà ấy. Nếu như những nhân vật khác, họ đều có một cái tên rõ ràng để xưng hô, để gọi như Đẩu, như thằng Phác,… thì người đàn bà này lại chỉ được gọi bằng một cái tên phiếm chỉ “người đàn bà hàng chài” hay “mụ”. Kể cả khi mụ ta đến toà án huyện, gặp Đẩu, ta cũng không biết tên mụ là gì. Bởi phải chăng mụ là đại diện, là hiện thân cho hàng trăm hàng ngàn những số phận người đàn bà ở những vùng biển khác nhau, cũng cơ cực như thế, cũng vô danh, cũng phải sống trong khắc nghiệt và thống khổ như thế?

Người đàn bà ấy qua lời kể của Phùng vô cùng ấn tượng, không phải bởi vẻ đẹp mà bởi vì xấu xí, thô kệch, không hề ưa nhìn. Đó là người đàn bà “xấu, rỗ mặt” lại mang “thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Không chỉ thế, ở mụ, người ta thấy toát lên một sự lam lũ, một dáng vẻ kham khổ của một người phụ nữ nhà quê “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ” và “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”. Sự khốn khó ấy còn thể hiện khi mụ đến toà án huyện với sự “lúng túng và sợ sệt”, “tìm đến một góc tường để ngồi”, dáng vẻ ấy là dáng vẻ của một người mang đầy những mặc cảm, tự ti. Thậm chí khi Đẩu mời mụ ngồi vào ghế, mụ cũng “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Dáng vẻ của mụ thật khiến người ta phải tội nghiệp, thương cảm làm sao! Tạo hoá dường như đã trút hết những bất hạnh của cuộc đời lên con người mụ, từ ngoại hình xấu xí, đến sự nghèo khổ, đến số phận đau đớn.

Đọc từng câu chữ, người ta thấy ở đó là niềm thương cảm sâu sắc mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm. Ông cảm thông, thấu hiểu, thương xót cho những số phận bất hạnh của người đàn bà ấy. Thế nhưng, không chỉ dừng lại ở sự thương cảm ngoại hình, ông còn đi sâu khám phá thêm về cuộc sống, số phận của người đàn bà ấy, để thương cảm hơn cho số phận con người. Và quả thật, số phận, cuộc đời của người đàn bà ấy tràn đầy những đau khổ và bất hạnh vô cùng!

Người đàn bà hàng chài vốn được sinh ra trong một gia đình khá giả, thế nhưng vì “một bận lên đậu mùa” mà mụ bị “rỗ mặt”. Vừa xấu lại vừa rỗ mặt khiến mụ bị xa lánh, “không ai trên phố lấy” để rồi mụ “có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá”. Tạo hoá đã đưa đẩy cuộc đời mụ từ những bất hạnh này sang bất hạnh khác, thế nhưng, bất hạnh thực sự bắt đầu từ khi mụ lấy chồng!

Cuộc sống của một người đàn bà chài lưới, quanh năm suốt tháng ở trên biển thế nhưng lại chưa từng một ngày no đủ. Quanh năm, mụ chỉ lo từng bữa cho đám con nheo nhóc. Lam lũ, khổ cực là thế, nhưng cái đói, cái nghèo đeo bám mụ từng ngày khiến mụ không dám rời xa cái thuyền kia để “lên bờ” sống, bởi “không bỏ nghề được”, bỏ nghề thì sẽ không có ăn. Cuộc sống lênh đênh trên biển đã khiến cuộc sống của gia đình mụ bấp bênh đến độ, có khi “ông trời làm động biển suốt háng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Có còn cái đói, cái nghèo nào đến mức đó hay chăng, khi mà chiến tranh đã qua đi, và dù rằng, người đàn bà đó phải thức trắng hàng đêm, phải làm lụng vất vả mỗi ngày?

Đói nghèo đã khổ, cơ cực đủ điều, thế nhưng cái mệt thể xác chẳng thể nào đau đớn bằng những trận đòn roi tàn bạo từ người chồng. Dường như mụ ngày nào cũng phải chịu nỗi hành hạ tinh thần đau đớn đó “ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”, thế nhưng lại chẳng thể phản kháng, đổi lại chỉ có sự cam chịu đến tận cùng.

Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự thương xót vô cùng với số phận của người đàn bà hàng chài. Sự nghèo túng, gánh nặng về cơm áo đã khiến cho mụ rơi vào cái vòng tròn của sự bất hạnh. Từ hình ảnh của người đàn bà ấy, tác giả còn muốn nói với người đọc những trăn trở của mình về cuộc chiến đấu chống lại cái đói, cái nghèo. Cũng giống như giặc ngoại xâm, “giặc đói, giặc dốt” cũng là một cuộc chiến mà chúng ta cần chúng ta đánh đuổi. Bởi còn đói còn nghèo thì cái xấu cái ác vẫn sẽ còn tiếp diễn.

Qua từng trang văn học của Việt Nam, người ta vẫn luôn thấy ánh lên ở mỗi người phụ nữ vẻ đẹp tâm hồn cao cả và ở người phụ nữ hàng chài này, Nguyễn Minh Châu đã làm cho vẻ đẹp tâm hồn ấy thăng hoa tuyệt vời, hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài rách rưới, khổ sở của mụ. Có thể nói, vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà ấy thể hiện trong mọi khía cạnh, trong mọi mặt mà đầu tiên là vẻ đẹp của một người phụ nữ đã từng trải, sâu sắc, thấu hiểu và bao dung vô cùng.

Nếu như Phùng và Đẩu bất bình trước sự độc ác của người chồng thì những lời lẽ của người đàn bà hàng chài đã khiến những người từng “vào sinh ra tử”, những trí thức như họ biến thành những người đàn ông thật nông nổi, hời hợt vô cùng.

Mụ đã kể cho Phùng, cho Đẩu nghe về cuộc đời mình, cho họ biết lý do tại sao mụ lại cam chịu sự vũ phu của người chồng. Bởi mụ hiểu tất cả đều do hoàn cảnh ép buộc, xô đẩy cuộc đời họ đến bước đường hôm nay. Nếu ngày xưa, chồng chị là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi” nhưng do cuộc sống, cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, đông con “giá như tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”, đã đẩy hắn trở nên tha hoá, trở thành một kẻ vũ phu, tàn nhẫn. Chắc hẳn, người đàn bà ấy phải là người thấu đáo, suy xét cẩn thận mới có thể hiểu được lẽ đời biến chuyển như thế!

Và người đàn bà cũng chỉ rõ cho Đẩu và Phùng thấy sự thiếu thực tế của họ rằng làm nghề chài lưới, cần người đàn ông “để chèo chống khi phong ba, để làm ăn nuôi nấng một đặng sắp con”, “là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Người đàn bà ấy đã chỉ ra cái khó khăn, cơ cực của người phụ nữ khi mưu sinh trên biển, khi mà những hiểm hoạ luôn bất chợt và tiềm ẩn. Mụ cũng biết rằng “từ ngày cách mạng về đỡ đói khố” thế nhưng những bất cập mà chính quyền chưa giải quyết được, đó là cấp đất cho dân chài nhưng “chẳng ai ở vì không bỏ nghề được”. Đến lúc đó, Đẩu và Phùng mới dường như chợt “vỡ ra” nhiều điều, giải pháp, sự thiện chí của họ vô cùng phi thực tế, và họ có lẽ cũng cảm phục người đàn bà nhà quê kia nhưng lại thấu hiểu cuộc đời, thấu hiểu con người đến nhường ấy!

Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài không chỉ thể hiện ở sự hiểu thấu cuộc đời mà còn ở tấm lòng nhân hậu, sự bao dung và tình mẫu tử sâu sắc. Người đàn bà ấy hàng ngày phải chịu những trận đòn roi độc ác “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” của người chồng không phải vì ngu muội, không dám phản kháng, cũng không phải mụ đã gây nên tội tình gì mà là vì mụ muốn để người chồng được giải toả tất cả những u uất, những dồn nén chất chứa trong lòng. Mụ hi sinh thân mình để ngày mai, vợ chồng mụ lại trở lại con thuyền, lại bắt đầu cuộc sống mưu sinh vốn đầy những cơ cực. Cách xử sự của người đàn bà ấy khiến cho người đọc chúng ta không chỉ thương xót mà còn vô cùng cảm phục nữa. Bởi đó là cách xử sự của một những hiểu rõ bổn phận và trách nhiệm của mình và cố gắng thực hiện nó dù nó phi lý và đau đớn vô cùng.

Nếu như Đẩu và Phùng vô cùng bất bình với những trận đòn man rợ của người đàn ông dành cho vợ “cả nước không có một người chồng nào như hắn” thì người đàn bà hàng chài lại luôn không hề trách cứ người chồng của mình. Mụ nhận hết mọi lỗi lầm về bản thân “giá như tôi đẻ ít đi”, “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”, “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Dường như tất cả mọi tội lỗi đều thuộc về người đàn bà, mọi khó khăn đều bắt nguồn từ chính mụ, thế nên, mụ chưa từng một lời than trách người chồng và luôn miệng xin rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đọc đến đây, chúng ta không khỏi xúc động, cảm phục tấm lòng vị tha, nhân hậu của người đàn bà hàng chài xấu xí ấy. Ẩn chứa trong một vẻ ngoài xấu xí, lại là một nhân cách cao cả vô cùng!

Tình mẫu tử vốn là thiên tính của người phụ nữ, và người đàn bà này cũng vậy, mụ yêu thương con mình vô cùng. Sự yêu thương ấy là lý do để mụ cam chịu những trận đòn roi man rợ bởi mụ muốn có người đàn ông để cùng mình “nuôi đặng một sắp con”. Và cũng vì thương con, sợ con chịu tổn thương tinh thần vì cảnh bạo lực gia đình nên mụ đã xin chồng đưa mình lên bờ để đánh “sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được lão đưa tôi lên bờ mà đánh”. Còn người phụ nữ nào có tình mẫu tử hơn thế, nhận hết mọi đau thương về mình “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở đất được”, chỉ mong đàn con được ăn no mà khôn lớn. Và cũng vì sợ thằng con làm gì dại dột với bố mà chị đã cắn răng gửi nó lên bờ cho ông ngoại nuôi nấng dù đó là đứa con chị yêu thương nhất cuộc đời mình. Tình thương con của người mẹ ấy chưa từng một lần được thể hiện trực tiếp nhưng lại diễn ra trong âm thầm. Khi đứa con chứng kiến cái cảnh tàn bạo ấy, người đàn bà đã đau đớn và xấu hổ đến chừng nào, “người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa xấu hổ, nhục nhã”. Mụ ôm con trong nước mặt “mếu máo, ôm chầm” lấy nó rồi “vái lấy vái để”. Cuộc đời của mụ có lẽ chỉ sống vì những đứa con, mụ chỉ đau đớn khi làm tổn thương con cái chứ chưa từng thấy đau đớn cho bản thân mình.

Chính chúng ta cũng phải tự hỏi, cuộc sống như người đàn bà ấy, liệu có khi nào được hạnh phúc hay chưa? Câu trả là lời có! Và có lẽ khoảnh khắc mà mụ hạnh phúc nhất đời là khi “ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” và gia đình được hòa thuận. Đó là khoảnh khắc mà gương mặt xấu xí của mụ “lần đầu tiên, chợt bừng sáng lên như một nụ cười”. Tất cả đó là vẻ đẹp, là sự thiêng liêng của tình mẫu từ, yêu thương con, sống vì con. Người đàn bà ấy cũng như vô vàn những người phụ nữ trên đất nước Việt Nam, bao dung, nhân hậu, vị tha, luôn kiên cường chịu đựng, hi sinh vì con cái.

Hình ảnh về người đàn bà đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng nghệ sĩ Phùng và cả trong lòng người đọc chúng ta. Những nét khắc họa từ ngoại hình đến hành động, lời nói,… đã khiến người đàn bà hàng chài ấy trở thành biểu tượng cho những người phụ nữ miền biển đáng thương. Và hình tượng người đàn bà ấy đã giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình. Đó là sự thương cảm, thấu hiếu dành cho những số phận bất hạnh bị nghèo đói, bạo lực bủa vây, nhưng ở họ, vẫn sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp, nhân hậu, vị tha.


Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 5

Chiếc thuyền ngoài xa đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quý của bà.

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta… Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không

biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chi mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị.

Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho chị.


Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 6

Ai đó đã từng nói “ Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong số đó. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật người đàn bà hàng chài.

Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng bút pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám phá của nhân vật Phùng, nhân vật người đàn bà làng chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và không khỏi trăn trở.

Xuất hiện trước mắt độc giả, người đàn bà làng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: “Thân hình cao lớn”, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.

Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà làng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.

Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.

Tóm lại, nhân vật người đàn bà hàng được Nguyễn Minh Châu xây dựng đã góp phần trong việc thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp mà nhà văn muốn gửi gắm.


Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 7

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.

Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.

Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.

Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời.

Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.

Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?

Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.

Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ám ảnh rất nhiều người nữa.

Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.

Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.


Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 8

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Nhà nghiên cứu hàng đầu Nga Nikulin nhận xét: “Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước 1980 được Nguyễn Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí vô trùng”. Ta có thể thấy điều ấy qua nhân vật Nguyệt trong “Trăng sáng”. Giai đoạn sau này, nổi bật là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang nhiều cảm hứng thế sự cùng những triết lí nhân sinh hơn. Nhưng quan điểm sáng tác của ông là “gắng đi tìm các hạt ngọc còn ẩn giấu trong bề rộng tâm hồn con người” thì không thay đổi. Nhân vật trung tâm của tình huống truyện nghịch lý trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là người đàn bà hàng chài. Từ nhân vật này, nhà văn bộc lộ tấm lòng nhân đạo và gửi gắm những bức thông điệp về nghệ thuật và cuộc đời.

Đọc tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” ta thấy nhân vật người đàn bà hàng chài được nhà văn giới thiệu là người đàn bà trạc ngoài 40. Và khi đề cập đến nhân vật này Nguyễn Minh Châu không gọi bằng một cái tên cụ thể nào cả mà gọi một cách phiếm định: “mụ”, “người đàn bà hàng chài”…Việc nhà văn không đặt tên cho nhân vật của mình không phải ngẫu nhiên vô tình mà đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa: Ông muốn nhấn mạnh đây chỉ là một trong vô số những người đàn bà đau khổ, bất hạnh, cần cảm thông sẻ chia mà thôi.

Người đàn bà hàng chài mang một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển với những nét thô, mặt rỗ “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ. Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và đau khổ. Có lẽ gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã lấy đi tất cả của chị: sinh lực, niềm vui và sức sống. Sự nghèo khổ nhọc nhằn đến mức nhác, thảm hại còn hiện rõ trong chi tiết miêu tả tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng. Sự khốn khổ của chị còn hiện ra ngay trong dáng vẻ: ” sợ sệt, lúng túng” khi ở tòa án, “tìm đến một góc tường để ngồi”. Thậm chí khi Đẩu phải mời đến lần thứ hai chị mới “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Có lẽ đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này là một phi lí, luôn mặc cảm, tự ti và do đó muốn giảm thiểu sự vướng víu, phiền phức đến khó chịu mà mình có thể gây ra cho mọi người xung quanh.

Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài. Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà đưa và cho người đọc chính là thái độ cam chịu nhẫn nhục của chị. Khi đi qua bãi xe tăng hỏng trước lúc đến bên chiếc xe, người đàn bà đứng lại “ngước mắt nhìn ra ngoài ….rồi đưa một cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân”. Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, một sự quen thuộc khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ của người chồng: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cặp mắt nhìn xuống chân mệt mỏi như một kẻ tội đồ chờ đợi một hình phạt không tránh khỏi. Khi bị đánh dã man, người đàn bà chịu đòn với vẻ cam chịu nhẫn nhục, đó là thái độ của một con người đang nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình, không oán thán, không bất bình, không né tránh.

 

Người đàn bà hàng chài không chỉ bị hành hạ về mặt thể xác, mệt mỏi sau những đêm thức trắng kéo lưới, không chỉ chịu đựng những đau đớn từ những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu mà còn bị giày vò nặng nề về những đau đớn tinh thần, về sự non nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đời trái ngang. Mô tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc vừa phải “chắp tay vái mấy vái để đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái luân thường đạo lí”. Nguyễn Minh Châu đã thể hiện nỗi xót thương cho sự đau khổ cùng cực của người đàn bà hàng chài. Chưa hết, chị còn bị gánh nặng cơm áo, cuộc sống nghèo túng đẩy vào cái vòng quẩn quanh bất hạnh. Trước năm 1975 mỗi khi biển động cả nhà toàn ăn xương rồng luộc chấm muối. Khi cách mạng về cuộc sống đỡ đói khổ hơn những nỗi lo cơm áo vẫn còn đó.

Từ thân phận người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho người đọc những suy nghĩ âu lo: cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo tăm tối và bạo lực còn gian nan lâu dài hơn cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào còn chưa thoát khỏi cuộc sống đói nghèo chừng đó con người vẫn phải chung sống với cái xấu, cái ác. Chúng ta đã đổ xương máu trong bao năm qua để giành được độc lập tự do trong cuộc chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc. Nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc chiến đấu giành quyền sống của từng con người, làm gì để đem lại cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa cho biết bao con người đang đắm chìm trong kiếp sống đói nghèo u tối.

Nếu bạn đọc từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời như ở người đàn bà rách rưới này. Vẻ đẹp khuất lấp mà người đọc cảm nhận được trước hết ở người đàn bà hàng chài đó là vẻ đẹp sâu sắc từng trải. Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà hàng chài quê mùa thất học hiểu lẽ đời khiến Đẩu và Phùng trở thành những người nông nổi, hời hợt. Trong khi Đẩu và Phùng bất bình trước người chồng tàn nhẫn, thấy ông ta là kẻ độc ác nhất thì người đàn bà hàng chài đã giúp họ nhận ra bao điều sâu xa của cuộc sống. Chị cho biết: chồng chị vốn là anh con trai hiền lành, cục tính, nhưng rơi vào cuộc sống luẩn quẩn, bế tắc cho nên trở thành kẻ tha hóa, vũ phu tàn nhẫn. Đó là một sự nhìn nhận sâu xa, thấu hiểu lẽ đời. Người đàn chỉ rõ sự thiếu thực tế của Đẩu và Phùng: “Lòng các chú đâu phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc”. Người đàn bà hàng chài đã chỉ ra một hiện thực tàn nhẫn: họ cần một người đàn ông để chèo chống lúc phong ba sóng gió dù hắn có man rợ, tàn bạo đến đâu. Như vậy, chị đã cho Phùng và Đẩu thấy được sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong những cuộc mưu sinh trên biển cả, luôn bất cập, tiềm ẩn những hiểm họa, đe dọa. Người đàn bà hàng chài còn chỉ ra sự bất cập trong cuộc sống của Đảng, của chính quyền Cách mạng. Chị cho thấy từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho họ nhưng chẳng ai ở vì không thể bỏ được nghề bởi sự tồn tại của họ gắn chặt với nghề. Tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế. Những điều đó đã tạo ra một đối sánh với người đàn bà hàng chài từng trải, hiểu đời, hiểu người, hiểu những điều có thể và không thể. Sự sâu sắc của chị khiến người đọc cảm phục nhưng cũng xót thương cho một kiếp người.

Người đàn bà hàng chài chấp nhận những trận đòn vũ phu độc ác của người chồng không phải vì chị ngu muội. Cũng không phải vì chị có tội lỗi gì với chồng mà chị cam chịu, nhẫn nhục những trận đòn đó không chỉ vì trên thuyền cần một người đàn ông mà còn như một cách giúp người chồng vơi đi những u uất khổ sở chất chứa trong lòng. Đó là cách xử sự của một con người hiểu rõ bổn phận nghĩa vụ của mình và gắng thực hiện cho xong, đâu đó là những bổn phận và nghĩa vụ phi lí. Không chỉ thấu hiểu xót xa cho nỗi khổ của người chồng, người đàn bà hàng chài còn mang một mặc cảm tội lỗi khi cho rằng “giá tôi đẻ ít đi” hoặc “chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Nếu Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu nhẫn nhục của người vợ bị chồng hành hạ thì khi hiểu được nguyên nhân của thái độ ấy, họ càng kinh ngạc vì sự nhân hậu, vị tha của tấm lòng người đàn bà hàng chài.

Tình mẫu tử được người đàn bà ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Chính tình thương yêu sâu sắc với con đã khiến chị nhẫn nhục chịu đựng sự tàn nhẫn của người chồng vì muốn có một người đàn ông khỏe mạnh biết nghề cùng mình làm ăn nuôi nấng các con. Cũng vì sợ con tổn thương trước cảnh bạo lực gia đình, chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, sợ đứa con làm điều gì dại dột với bố nó, người đàn bà hàng chài đã phải cắn răng gửi đứa con chị yêu thương nhất lên bờ sống với ông ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng ấy,” tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”. Khi đứa con chứng kiến cảnh tàn nhẫn đó, người đàn bà “mếu máo” gọi con rồi “chắp tay vái lấy vái để” ôm chầm nó, bởi chị sợ tình yêu thương, sự ngây thơ non nớt cùng lòng căm giận, u tối trong thằng bé sẽ hành động dại dột. Tiếng khóc của tình thương con và nỗi đau quặn thắt trong trái tim người mẹ, vừa đau đớn vừa xấu hổ nhục nhã. Chị đau đớn vì làm con tổn thương rồi mới đau cho bản thân mình. Khi nhắc đến những lúc hòa thuận trên thuyền khuôn mặt xám xịt chợt bừng sáng lên như một nụ cười. Đó là ánh sáng, là vẻ đẹp của tình mẫu tử, mọi niềm vui nỗi buồn đều xuất phát từ ” vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, kiên cường chịu đựng, giàu lòng vị tha và đức hi sinh “biết hi sinh nhưng chẳng nhiều lời” Tố Hữu.

 

Người đàn bà ấy đã để lại một ấn tượng sâu sắc để nhiều năm sau tồn tại, khi nhìn lại “bức ảnh Chiếc thuyền ngoài xa” bây giờ nghệ sĩ Phùng cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh…hòa lẫn với đám đông. Đó là hình ảnh của những con người vô danh khốn khổ trong cuộc sống lầm lũi đời thường. Họ đã kiên cường vượt lên tất cả, không phải vì mình mà là vì những người thân yêu.

Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ đến cử chỉ, lời nói, hành động…nhân vật người đàn bà hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy ám ảnh giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn. Đó là niềm cảm thương và nỗi lo âu cho số phận con người bất hạnh bị cầm tù trong đói nghèo, khốn khổ, bạo lực. Đồng thời thể hiện niềm tin yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, tính cách những con người luôn sống cuộc sống lòng người nhân hậu, vị tha.


Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 9

Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh .

Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng . Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.

Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người đàn bà trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự bất hạnh trong cuộc đời chị. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật.

Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc: “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.

Người đàn bà đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đau đớn khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…”

Người đàn bà ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự thâm trầm trong thấu hiểu lẽ đời dường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì: “Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.

Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”. Chị “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.

Có thấu hiểu được như vậy chúng ta mới hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người đàn bà bất hạnh. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.

Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của ông nhưng chúng ta phần nào cảm thông cho ông.

Đặc biệt ở người đàn bà là chị cũng đã vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hy vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi : “..vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.

Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta . Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.


Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 10

[TOP 11] Phân tích người đàn bà hàng chài (ảnh 2)

Nguyễn Minh Châu là một trong số những tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, bằng ngòi bút tinh tế, nhẹ nhàng, ẩn chứa nhiều những bài học, những quan điểm có giá trị nhân văn ông đã đem đến cho nền văn học hiện đại một xu hướng mới. Không còn viết về những đề tài chiến tranh thảm khốc, những nỗi đau thương mất mát trên chiến trường, hay sự hào hùng hy sinh anh dũng của những con người ở tiền tuyến và hậu phương.

Nguyễn Minh Châu đã đặt trọng tâm vào việc phản ánh đời sống xã hội lúc bấy giờ, đi sâu vào từng cuộc đời cá nhân với những nỗi đau và những vẻ đẹp lẩn khuất, để cuối cùng mở ra những quan niệm mới mẻ về cuộc đời, khiến chúng ta nhận thức được những điều có lý trong chính những nghịch lý của cuộc đời. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Minh Châu với nhân vật người đàn bà làng chài mang trong mình những nỗi bất hạnh, đớn đau. Tuy nhiên từ trong những nỗi đau thương bất hạnh ấy, độc giả lại cảm nhận được thật rõ nét những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, cũng như thấu hiểu cảm thông hơn cho nhân vật này, cho những người phụ nữ làm nghề chài lưới ven biển giai đoạn sau giải phóng, khi mà chiến tranh đi qua nhưng những hậu quả để lại trên mảnh đất Việt Nam còn quá lớn và dai dẳng.

Trước hết để diễn tả nỗi bất hạnh của người đàn bà làng chài, người ta không thể bỏ qua những chi tiết về ngoại hình của chị. Chẳng còn gì đáng buồn hơn là ông trời đã bắt người đàn bà ấy phải chịu nỗi đau của một người phụ nữ có dung mạo xấu xí, chị vốn sinh ra trong một gia đình giàu có, thế nhưng một cơn đậu mùa đi qua đã để lại trên mặt chị cơ man nào là những nốt rỗ chi chít, rồi trở thành cô gái quá lứa lỡ thì, rồi cuối cùng may mắn nên duyên cùng người chồng hiện tại. Thế nhưng ấy chẳng phải là cuộc hôn nhân hạnh phúc, viên mãn gì, bởi lẽ lấy chồng nghèo, chị đã phải hy sinh cả cuộc đời của mình cho những nỗi lo cơm áo gạo tiền, cuối cùng giờ đây chị biến thành một người phụ nữ trung niên, dáng vẻ thô kệch, khuôn mặt tiều tụy, xơ xác, thảm hại vô cùng.

Nhưng bất hạnh của chị chưa dừng lại ở đó, mà nó còn khủng khiếp hơn khi bản thân người phụ nữ này còn là nạn nhân của cảnh bạo hành gia đình dã man. Bước vào đầu câu chuyện, người ta đã không khỏi xuýt xoa say mê trước cái cảnh một con tàu tiến vào bờ trong ánh mai hồng, tựa như một bức danh họa thời cổ, một cảnh "đắt" trời cho hiếm có. Thế nhưng giữa lúc ấy bước xuống khỏi con thuyền như mơ, lại là một cặp vợ chồng, tiều tụy, lam lũ, và khủng khiếp hơn ấy là cảnh người đàn ông dùng thắt lưng quất liên tiếp vào người đàn bà đi cùng vừa đánh vừa chửi rủa đay nghiến những lời cay độc, còn người đàn bà thì chỉ biết chịu đựng, không bỏ chạy, không la hét chống cự. Rồi cả nỗi đau đớn của chị khi phải chứng kiến đứa con trai của mình là thằng Phác lao vào đánh lại bố nó để bảo vệ mẹ. Tất cả những điều ấy khiến người ta dễ dàng đặt ra một dấu hỏi lớn, vì sao người đàn bà ấy lại phải nhẫn nhịn và chịu đựng một cách nhu nhược và hèn nhát đến nhường này, trong khi bản thân chị cũng có được sự bảo vệ của thằng con, sao chị vẫn cứ căng mình để nhận lấy những đòn roi từ người chồng vũ phu, độc ác.

Tuy nhiên, chỉ khi được Phùng và chánh án Đẩu mời lên giải quyết chuyện ly hôn, chị mở lòng tâm sự những điều mình giấu trong lòng bấy lâu nay người ta mới vỡ lẽ ra rằng, không phải việc gì chúng ta cho là có lý cũng hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp. Với câu chuyện của người đàn bà làng chài, khi được Phùng và Đẩu giúp đỡ làm thủ tục ly hôn, giải thoát khỏi cảnh bạo lực gia đình nghiêm trọng, thì phản ứng của chị không phải là vui mừng, hạnh phúc, muốn ly hôn lập tức. Mà trái lại, người đàn bà ấy sống chết cầu xin đừng bắt chị ly hôn chồng, có lẽ đối với nhiều người đó là một hành động không thể nào "gàn dở" hơn, thế nhưng phải đứng vào vị trí ấy của người đàn bà làng chài chúng ta mới hiểu chị có biết bao nhiêu nỗi lo, nỗi khó xử. Chị không muốn ly hôn chồng chung quy tất cả cũng là tấm lòng thương con của người mẹ, vì những đứa con còn tuổi ăn tuổi lớn của mình, chị sợ rằng không có người đàn ông chèo chống lúc phong ba bão táp, thì mình chị làm sao có thể gồng gánh để nuôi từng ấy miệng ăn qua những ngày biển động. Lão chồng vũ phu của chị dù có đánh đập, hành hạ chị đến cỡ nào, rồi cũng phải quay về con thuyền này, làm tròn bổn phận của một người cha, ra sức lao động để cùng chị nuôi lớn con cái.

Vì con chị chẳng sợ gì đòn roi, đau đớn, miễn sao là những đứa con của chị có thể được ăn no, được lớn lên đàng hoàng, khỏe mạnh, là đã đủ khiến chị hạnh phúc, mãn nguyện. Tấm lòng người đàn bà, người mẹ ấy thật bao dung, ấm áp. Không chỉ lo lắng về vật chất, cơm ăn áo mặc, mà hơn thế nữa chị còn lo lắng cả về mặt tinh thần cho những đứa con của mình, chị muốn chúng có bố như bao đứa trẻ khác, có một gia đình đầy đủ vẹn toàn. Và dù bị đánh đập dã man, chị cũng không muốn để con mình nhìn thấy, chính vì vậy chị luôn xin gã chồng vũ phu có đánh thì rời khỏi thuyền rồi hãy đánh chị. Bởi lẽ chị không muốn những hình ảnh bạo lực, sự rạn nứt tình cảm gia đình giữa cha mẹ làm ảnh hưởng đến tâm hồn của con cái. Về chuyện của thằng Phác, khi phát hiện nó thù ghét cha mình, thậm chí có những suy nghĩ lệch lạc, chị đã nhanh chóng gửi nó về nhà ngoại, để tránh việc nó làm ra những chuyện không thể vãn hồi. Có thế mới thấy được tình mẫu tử thiêng liêng của người đàn bà làng chài, dẫu trên tấm lưng và tâm hồn dày đặc những vết thương đau đớn, thế nhưng chị vẫn một lòng bảo hộ chu toàn cho những đứa con bằng cách của riêng mình. Sống một cuộc đời nhiều sóng gió, vất vả và đau thương như thế nhưng bản thân chị không mấy khi nghĩ đến những chuyện đớn đau mà trái lại chị luôn hướng về những tháng ngày hạnh phúc, gia đình quây quần đầm ấm bên nhau trong những bữa cơm, đối với chị chỉ cần nhìn thấy con cái ăn no là chị cũng đã đủ hạnh phúc. Đối với chị "ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ" cho nên họ "phải sống cho con chứ không thể sống cho mình". Chị thấu hiểu lẽ ấy, nên chấp nhận nhẫn nhịn, hy sinh tất cả để củng cố cuộc đời của các con.

Bên cạnh vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, ở người đàn bà làng chài còn có vẻ đẹp của sự nhẫn nhịn, cam chịu và tấm lòng bao dung sâu sắc. Đối với việc bị đánh đập tàn nhẫn của người chồng vũ phu, người đàn bà làng chài không than trách, không kết tội, mà trái lại chị có phần thấu hiểu, cảm thông và bào chữa cho hắn. Chị cho rằng chung quy lại cũng chỉ tại khổ quá, đói kém quá, biết bao nhiêu gánh nặng của một gia đình hơn chục miệng ăn cứ quanh năm suốt tháng đè nặng lên đôi vai của người chồng, khiến hắn mệt mỏi và cần một nơi để trút giận, trút hết những uất ức bấy lâu, xong rồi thì hắn lại quay về lao động, kiếm sống. Chị hồi tưởng về những ngày trẻ và nhắc lại một cách dịu dàng rằng chồng chị khi ấy "cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập tôi". Sau cùng chị tổng kết "giá mà tôi đẻ ít đi", một nạn nhân, một người đáng được che chở bảo vệ, cuối cùng lại nhận hết mọi trách nhiệm về mình và biện minh cho người đã gây ra biết bao đau khổ cho bản thân. Có tấm lòng nào nhân hậu và bao dung được hơn thế nữa. Thêm nữa có lẽ bản thân chị vẫn luôn ghi nhớ cái ơn nghĩa cứu vớt cuộc đời chị khi xưa của người chồng, mặc dầu cuộc đời chị có thể không được trọn vẹn, nhưng ít nhất chị cũng có một gia đình và những đứa con của riêng mình, không phải chịu sự cô độc đến già.

Bên cạnh ấy, ở người đàn bà làng chài, lam lũ, ít học, thế nhưng người ta lại nhận ra được vẻ đẹp của một tâm hồn từng trải, thấu tình đạt lý, có một cái nhìn rất đa chiều và sâu sắc về cuộc đời. Chị không chỉ là một con người biết nhẫn nhịn, biết chịu đựng mà bản thân chị còn là một người biết phân biệt đúng sai, chị cũng hiểu được rằng hành động của Phùng và Đẩu cốt là để giúp đỡ chị, thế nhưng phải đứng trong hoàn cảnh của chị người ta mới thấy khó khăn để lựa chọn cỡ nào. Từng lời phân tích, với những lý lẽ mộc mạc, giản đơn, giàu đức hy sinh của người đàn bà làng chài, dường như đã khiến Phùng và Đẩu vỡ ra một điều gì đó. Đó là việc những cái có lý vẫn có thể tồn tại ngay trong lòng những điều nghịch lý nhất, mà bản thân con người phải có một cái nhìn đa diện nhiều chiều thì mới nhận ra và thấu hiểu được.

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một trong những tác phẩm xuất sắc phản ánh rất rõ bức tranh xã hội Việt Nam sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, tuy chiến tranh đã đi qua thế nhưng hậu quả nó để lại cho con người, cho mảnh đất quê hương thì còn mãi dai dẳng, chính cái đói, cái nghèo kiệt quệ đã khiến con người ta khốn khổ, tha hóa. Tuy nhiên không nhằm mục đích nhấn mạnh vào vấn đề này, mà chủ yếu Nguyễn Minh Châu muốn khai thác vẻ đẹp tâm hồn của những con người nhỏ bé, những khía cạnh đạo đức, từ đó dẫn ra những quan điểm mới về cách nhìn nhận cuộc đời, cách cảm nhận những vẻ đẹp chân chính mà ở đây là hình ảnh người đàn bà làng chài với vẻ đẹp của tình mẹ, sự bao dung và thấu hiểu lý lẽ ở đời.


Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 11

Trong cuộc sống phức tạp này, sự thật đôi khi không phải là điều ngay trước mắt mà sự thật là cái ẩn giấu bên trọng. Vì vậy muốn nhìn nhận đúng về cuộc sống về con người, chúng ta phải nhìn vào cái bên trong, bản chất thật, nhìn cuộc sống một cách đa diện. Giống như nhân vật người đàn bà làng chài của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa. Mang vẻ bề ngoài xấu xí, nhưng phẩm chất bên trong lại vô cùng tốt đẹp.

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được viết vào năm 1983 và đến 1985 trong tập " Bến Quê" tác phẩm là sản phẩm con người đời thương. Truyện kể về việc nghệ sĩ nhiếp ảnh phùng đi tới vùng biên này mong tìm được một bức ảnh cho bộ lịch. Sau gần một tuần tìm kiếm, cuối cùng anh cũng tìm thấy một cảnh đắt trời cho " Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ". Nhưng vừa như phát hiện một chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì bất ngờ anh phát hiện ra cảnh bạo lực gia đình. Với sự xuất hiện người đàn bà làng chài gây ấn tượng lớn cho người độc và người nghe.

Người đàn bà làng chài, không được gọi tên. Chỉ được gọi bằng những đại từ "Người đàn bà, bà…" Người đàn bà chạc 40 tuổi, mang thân hình quen thuộc của người vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Người đàn bà có ngoại hình thật xấu xí và phi thẩm mỹ. Trước kia, người đàn bà này sống ở phố. Con một gia đình khá, nhưng không ai lấy vì xấu. Chị đã có mang với anh làng chài và đã có cuộc sống hôn nhân với anh. Người khác nhìn vào cho rằng đây là địa ngục vì ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày chị bị một trận lớn. Đúng vậy cuộc sống của chị thật đáng thương và khổ cực. Chị khổ cả về thể xác và tinh thần, giống bao gia đình làng chài khác, gia đình chị đông con. Nhà thì nghèo khó. Thuyền thì bé, có những lần gia đình chị phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Một cuộc sống không thể nào khổ hơn. Người ta nhiều khi khổ về vật chất, nhưng tinh thần đầy đủ cũng là hạnh phúc "một túp lều tranh hai trai tim vàng". Nhưng chị đâu được thế cuộc sống tinh thần của chị còn khổ hơn. Người đàn ông xấu xí- chồng chị, một phần vì cuộc sống làm cho tính cách hắn hung bạo. Hắn dùng cách giải thoát sự bức xúc bằng cách đánh đập chị, chửa rửa chị và các con chị "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ" Bị những trận đòn roi những cái quất mạnh của chồng tàn bạo, nhưng chị vẫn "Với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không tìm cách chống trả, không tìm cách chạy trốn. Trận đòn roi chỉ dừng lại khi thằng phác lao tới cứu mẹ và đánh lại bố" Cả hai mẹ con chỉ biết khóc. Người đàn bà kể trước kia khi con còn nhỏ, hắn đánh chị trên thuyền. Sau khi con lớn, chị xin hắn đưa lên bờ rồi đánh. Chúng ta thấy rằng cuộc sống của chị thật khó khăn, chị chỉ biết cam chịu và đôi khi chính là sự ngu dốt.

Nhưng thực chất bên trong còn nhiều điều mà mọi người chưa rõ. Khi chánh án đầu gợi ý li hôn, chị nhất định không chịu, van nài xin không li hôn, nhận hết trách nhiệm , tội lỗi lên đầu mình. Vì sao ư? Vì chị là một người am hiểu lẽ đời, cho dù thất học. Chị hiểu rằng tên con thuyền này cần một người đàn ông chèo chống vượt qua. Phong ba và nuôi cho sấp con của chị cũng rất cảm thông cho chồng chị, xưa là một con người cực tình nhưng không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn, làm cho người đàn ông đâm ra đánh vợ con , chị nhẫn nhục cam chịu, nhận hết trách nhiệm về bản thân mình. Nhận vì mình đẻ nhiều con mà cuộc sống khổ cực. Ngoài cam chịu, chấp nhận hi sinh, cuộc sống của chị còn có niềm vui đó là khi các con chị được ăn no, mặc ấm.

Người mẹ nào cũng vậy, thấy các con mình hạnh phúc, thì bản thân hạnh phúc gấp một trăm lần rồi. Và đôi khi gia đình chị cũng hòa thuận, đầm ấm, vui vẻ chị còn có lòng tự trọng cao. Chị biết xấu hổ khi có người khác biết truyện mình bị đánh, đặc biệt là thằng phác. Người chị yêu thương nhất " Cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột từ cái lão đàn ông đã hành hạ mụ" Chị đã khóc khi phùng nhắc tới thằng phát. Chị thương con vô cùng, Chị cũng đem đến cho đẩu và phùng những bài học quý giá.

Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người đàn bà xấu xí, phi thẩm mĩ, một bên là vẻ đáng thương, phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người đàn bà trong truyện là người có cốt cách bên trong, biết nhìn xa, thương đàn con nhỏ, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, thương chồng, thương con am hiểu lẽ đời, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Đây chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.

Qua hình ảnh người đàn bà trong truyện chúng ta thấy người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù vẻ ngoài không đẹp nhưng bên trong luôn có phẩm chất cao quý. Luôn nghĩ tới gia đình, hạnh phúc nhỏ của mình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn, chăm sóc gia đình, hạnh phúc đó chính là con cái của mẹ. Người phụ nữ mang một lòng vị tha cao cả, Những khác biệt của người phụ nữ làng chài, phụ nữ ngày nay năng động hơn, làm chủ cuộc sống hơn, làm chủ được kinh tế.

Họ không còn phải nhẫn nhục chịu trận đòn roi của chồng. Họ yêu thương chồng con, họ cần một người đàn ông chèo kéo mái ấm gia đình, là người yêu thương gia đình, yêu thương vợ con. Nhưng nếu là người đàn ông vũ phu đánh đập vợ con, họ sẵn sàng báo cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi hạnh phúc của gia đình mình. Bên cạnh đó vẫn còn những người phụ nữ nhu mì, hèn nhắc, nhẫn nhục sẵn sàng chịu đựng đòn roi của chồng. Cố bấu víu lấy cái hạnh phúc chỉ có trong ảo tưởng, sống không có lập trường. Họ cần phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ tới giải pháp cuối cùng để giải thoát tìm hạnh phúc , cho mình cơ hội để đến với hạnh phúc đích thực.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho ta thấy sự đối lập, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Chúng ta cần phải nhìn cuộc sống và tâm hồn đa diện, phải tìm kiếm, khám phá cái bản chất bên trong, từ vẻ bề ngoài của người đàn bà trong truyện yêu thương chồng con hi sinh cao cả.

----------------------------------

Trên đây Toploigiai đã mang tới cho các bạn những kiến thức bổ ích qua bài [TOP 11] Phân tích người đàn bà hàng chài. Hi vọng những kiến thức trên sẽ giúp các bạn đạt được kết quả cao trong học tập nhé!

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 30/11/2022