Tổng hợp các bài mẫu Phân tích khổ 2 bài Tây tiến ngắn nhất của nhà thơ Quang Dũng nhằm giúp đỡ các bạn trong quá trình học tạp, rèn luyện kỹ năng viết lách, phân tích tác phẩm văn học.
>>> Tham khảo: Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến
Nhà thơ Văn Long đã từng nhận xét: “Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một cách hồn nhiên, ông cứ sống tự nhiên như chim trên trời, cá dưới nước mà thành độc đáo. Bài thơ “Tây Tiến” hội tụ được cả cái bi, cái tráng của thời đại. Cái buồn lãng mạn của người tiểu tư sản, tiểu trí thức do biết mình được đón nhận một chân lý lớn nhưng cũng đồng thời đón nhận một gian nan lớn”. Thật đúng vậy, hồn thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn tài hoa. Đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài mây trắng. Bài thơ “Tây Tiến” được viết vào cuối năm 1948 khi Quang Dũng chuyển đơn vị công tác. Trong dịp về dự đại hội toàn quân của làng Phù Lưu Chanh thuộc tỉnh Hà Đông cũ, Quang Dũng nhớ đơn vị cũ của mình da diết đã bật lên thành tiếng thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ về cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến trên nền cảnh thiên nhiên miền Tây. Nổi bật được thể hiện qua đoạn trích:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đoạn thơ mở ra một thế giới khác của miền Tây tổ quốc. Cảnh núi rừng hoang vu, lạnh lẽo lùi dần để bất ngờ hiện ra vẻ mỹ lệ, nên thơ của cảnh vật và con người nơi đây. Quang Dũng đã bị hấp dẫn trước về đẹp mang màu sắc bí ẩn của cảnh sắc nơi xứ lạ phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một đêm liên hoan lửa trại bập bùng và một buổi chiều sương mơ màng trên sông nước:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Bốn câu thơ trên gợi không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ. Một không gian thơ mộng ngay giữa lòng rừng núi, một đêm liên hoan đã diễn ra trong không khí hân hoan của mọi người. Câu thơ “doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” làm cho cả không gian núi rừng như sáng bừng lên. “Bừng lên” là một động từ diễn tả trạng thái đột ngột, mạnh mẽ của ánh sáng. Đó là sự bừng lên của lửa trại và cũng chính là sự bừng lên của tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói rộn rã. Những bó đuốc ấy được tác giả mỹ lệ hóa thành những ngọn “đuốc hoa”, gợi liên tưởng đến hoa chúc trong ngày hạnh phúc của cặp vợ chồng mới cưới. Ánh sáng của đuốc hoa xua tan đi cái u ám, cái lạnh giá của núi rừng, thắp sáng lên ngọn lửa hy vọng, tràn ngập niềm vui trong lòng người chiến sĩ trẻ. Trong không khí tưng bừng ấy, các cô gái đã xuất hiện mang đến nhiều bất ngờ mới “kìa em xiêm áo tự bao giờ”. Nhân vật “em” vừa xuất hiện đã trở thành linh hồn của đêm liên hoan lửa trại. Cuộc hội ngộ bất ngờ giữa chốn núi rừng hoang vu như tưới mát tâm hồn của những người lính. Họ hòa mình vào đêm lễ hội, cùng giao lưu trong tiếng nhạc rộn rã, tưng bừng. Một cảnh tượng rất vui tươi mà cũng rất tình tứ. Cụm từ “nàng e ấp” nói lên vẻ duyên dáng, kín đáo, tình tứ của những người con gái trong đôi mắt đa tình của người chiến sĩ trẻ. Tiếng khèn man điệu kết hợp với câu thơ toàn thanh bằng tạo nên độ dịu dàng, lãng mạn của tâm hồn người lính. Xua tan đi mọi cảm giác mệt mỏi, vất vả thay vào đó là tấm lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Chính những giây phút đẹp đẽ của đêm lửa trại ấy đã để lại bao kỉ niệm đẹp đẽ trong đời lính. Hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh cũng không thể mờ đi tâm hồn lãng mạn, hào hoa nơi những chàng trai trẻ vốn ra đi từ đất Hà Thành. Bốn câu thơ tiếp theo là khung cảnh chia tay trên miền sông nước miền Tây hoang vắng, tĩnh lặng, đầy thơ mộng:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
……………………………....
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Giây phút vui vẻ ấy đã kết thúc, cuộc hội ngộ nào rồi cũng đến lúc chia tay. Giây phút chia tay ấy đã để lại bao luyến thương trong lòng kẻ ở người đi. “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy” cách sử dụng từ vô cùng hàm xúc. “Chiều sương ấy” nói lên sự tài hoa của Quang Dũng. Đọc câu thơ ta như lạc vào một buổi chiều sương giăng mờ ảo trên sông nước mênh mang. Vậy người ra đi ở đây là ai? Là những người lính họ phải rời xa mảnh đất miền Tây nơi từng có bao kỉ niệm đẹp. Chữ “ấy” như lạc vào miền ký ức sâu thẳm, vừa thực vừa mộng. Trong buổi chiều sương mờ ảo ấy tưởng như mỗi cảnh vật đều có một linh hồn. Cách nói “hồn lau nẻo bến bờ” gợi cảm giác trong mỗi nhành cây ngọn cỏ là một mảnh hồn thiêng nào đó. Đó là linh hồn tạo vật hay chính nỗi nhớ thương của nhà thơ đã cho những tạo vật ấy có một linh hồn. Cuộc đời người lính gắn liền với hoa lau vùng Tây Bắc, nay phải tạm chia xa. Nỗi nhớ ấy càng trở nên da diết, bâng khuâng. Trên những dòng sông giữa đôi bờ cổ tích ấy hiện lên dáng hình uyển chuyển, mềm mại của một người con gái trên chiếc thuyền độc mộc. Trong khổ thơ này Quang Dũng đã mở đầu hai câu thơ bằng hai cụm từ nghi vấn “có thấy”, “có nhớ”. Nhờ đó câu hỏi tu từ cũng như lời tự vấn da diết khắc khoải. Phải chăng đó là dáng hình kiêu dũng của người lính Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt thác tiến thẳng về phía trước. Câu thơ cuối “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” sử dụng biện pháp đối. Đối giữa cái dữ dội của dòng nước đang cuộn trào chảy với cái mềm mại của hoa đong đưa. Thiên nhiên như hòa vào cảm xúc của con người. Tạo lên một bức tranh vùng Tây Bắc thật lãng mạn nhưng cũng không kém phần hào hùng.
Khổ thơ đã tái hiện lại kỷ niệm đẹp về một đêm liên hoan lửa trại ấm áp tình quân dân. Đọc xong đoạn thơ, ta như lạc vào thế giới của cái đẹp. Đó là vẻ đẹp toát lên từ cảnh vật, từ lòng người. Đoạn thơ cũng là minh chứng cho tính lãng mạn trong hồn thơ Quang Dũng. Nếu xem Tây Tiến là một bài hát về người lính thì đoạn thơ là khúc hát mang giai điệu êm đềm. Đoạn thơ như khiến ta được sống lại với những năm tháng cuộc đời kháng chiến chống Pháp tuy gian khổ mà đầy tươi vui.
Đoạn thơ góp phần làm nên sự thành công của bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm thể hiện rõ bút pháp lãng mạn của Quang Dũng trong cách nhìn, cách miêu tả. Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ gợi cảm, nhiều chi tiết hình ảnh cây liên tưởng thú vị. Kết hợp với giọng thơ sâu lắng, thơ mộng, trữ tình vẽ lên một bức tranh miền Tây tổ quốc tuyệt đẹp.
Bài thơ Tây Tiến đã cho thấy sự thành công của Quang Dũng trong việc dựng lên bức tượng đài bất tử về hình tượng người lính. Với âm hưởng thơ hòa quyện giữa hiện thực và lãng mạn Quang Dũng đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hoang sơ hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình. Xen vào đó là hình tượng con người với vẻ đẹp hào hoa, bi tráng. Tây Tiến đã trở thành một dấu ấn thiêng liêng với nhà thơ Quang Dũng và với tất cả chúng ta. Nó đã biến đoàn quân Tây Tiến thành bất tử, sống mãi với thời gian.
Ra đời năm 1948, cùng với “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu, “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng đã tạo nên bộ “ngũ tư bất tử” trong thơ ca thời kháng chiến chống Pháp. Nỗi nhớ về cảnh và người nơi núi rừng Tây Bắc, nhớ về những người đồng đội từng vào sinh ra tử đã trở thành mạch nguồn cảm hứng để Quang Dũng cho ra đời thi phẩm Tây Tiến gây xúc động lòng người. Bài thơ là tiếng lòng thổn thức, chơi vơi mà Quang Dũng gửi lại mảnh đất miền Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Men theo nỗi nhớ thương ấy, vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên miền Tây rất đỗi thơ mộng, con người miền Tây khỏe khoắn, kiên cường đã được khắc họa thật đậm nét qua những vần thơ giàu sức gợi cảm:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ông có thể viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, trong đó ông đặc biệt thành công trong lĩnh vực sáng tác thơ văn. Với hồn thơ lãng mạn, phóng khoáng Quang Dũng đã mang đến cho thơ văn kháng chiến một màu sắc mới mẻ, độc đáo, đặc biệt là trong hình tượng người lính: vừa kiên cường dũng cảm vừa hào hoa phong nhã. Có thể thấy rõ những nét mới mẻ này qua bài thơ được coi là kiệt tác thơ văn của Quang Dũng – Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác năm 1948 khi Quang Dũng chia tay với đồng đội, binh đoàn Tây Tiến để chuyển đến đơn vị công tác mới. Qua bài thơ, Quang Dũng không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình cảm gắn bó với những người đồng đội và vùng đất Tây Bắc mà còn dựng lên đầy sống động chân dung những người lính Tây Tiến vừa kiêu dũng, ngoan cường vừa tài hoa lãng mạn.
Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần đông là những chàng trai trẻ của đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch: “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng – Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm” nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng lắm mơ. Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí tưởng cao cả: quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến là một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu – Hòa Bình cho đến tận Thanh Hóa, kéo sang cả Sầm Nưa của Lào. Đó là vùng địa hình đồi núi phía Tây Bắc hiểm trở của tổ quốc. Nơi rừng thiêng, nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Họ có nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội Pathết Lào đánh tiêu hao sinh lực địch. Cuộc sống chiến đấu vô cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Chính vì thế mà những người lính Tây Tiến hi sinh vì mũi tên hòn đạn thì ít mà vì ốm đau, bệnh tật thì nhiều. Chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn Tây Tiến đã hi sinh gần hết, đơn vị tan rã, đại đội trưởng Quang Dũng được chuyển sang một đơn vị khác và Tây Tiến sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi bên dòng sông Đáy hiền hòa thuộc tỉnh Hà Đông cũ, kỉ niệm, kí ức về những tháng năm gắn bó cùng đồng đội thân yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. Tây Tiến được viết lên trong nỗi nhớ trào dâng, da diết Quang Dũng gửi đến cho đất và người trọn vẹn một tình yêu. Bài thơ mới ra đời nó có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Nhưng có lẽ sau này Quang Dũng hiểu rằng, thơ là “ý tại ngôn ngoại”, không nói nhớ mà nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng chữ, từng nhịp thơ, đấy mới là cái tài hoa của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh giản chỉ còn “Tây Tiến” mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là nguồn cảm hứng của cả bài. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” xuất bản năm 1948.
Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sự hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cảnh trí miền Tây dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống đậm chất Đường thi: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng, thi vị, ấm áp giàu sức cuốn hút.
Bốn câu đầu gợi nỗi nhớ cảnh đêm liên hoan rực rỡ, lung linh, chung vui với bản làng xứ lạ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Khung cảnh của đêm liên hoan lửa trại được nhà thơ gọi theo cách riêng của mình là hội đuốc hoa thật tưng bừng, náo nhiệt và rộn rã. Không còn cái khúc khuỷu, thăm thẳm của đèo cao, vực sâu, không còn cái oai linh gầm thét của rừng thiêng xứ lạ nữa. Bừng lên là bừng tỉnh, bừng sáng, tưng bừng. “Bừng lên” vừa chỉ được ánh sáng phát ra đột ngột, bất ngờ vừa gợi sự thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Từ “bừng” làm sống dậy cả một đêm liên hoan văn nghệ, làm bừng sáng và rộn ràng cả đoạn thơ. Chính vì thế có thể coi nó là nhãn tự, là chữ có thần.
Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra giữa lòng núi rừng đại ngàn của miền Tây nên cần phải có lửa đuốc để soi sáng. Người đến xem và những chàng lính trẻ cầm trên tay bó đuốc là những thanh nứa, thanh tre đập dập. Khi đêm liên hoan văn nghệ diễn ra cũng là lúc ánh sáng của lửa đuốc bừng lên soi tỏ mặt người, ấm áp tình quân dân. Trong con mắt thơ tài hoa của Quang Dũng đó là đêm hội đuốc hoa, ngọt ngào, đắm say, lãng mạn như đêm động phòng hoa trúc của lứa đôi trong tối tân hôn. Thật là cảm xúc táo bạo và khó phai mờ. Ánh sáng bừng lên cũng là lúc những sắc màu lung linh tỏa rạng của những xiêm áo thổ cẩm:
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc tôn vinh thêm vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Và còn bừng lên cả âm thanh của tiếng khèn “man điệu”: Khèn lên man điệu nàng e ấp. Những điệu nhạc truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc du dương, bí ẩn hoang sơ như chốn núi rừng có sức mạnh hút hồn các chàng lính trẻ.
Trong khoảnh khắc ngập tràn âm thanh và ánh sáng ấy, tâm hồn người lính cũng rộn rã, tưng bừng. Thán từ “kìa em” như lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện. “Em” xuất hiện lập tức trở thành trung tâm thu hút mọi điểm nhìn. Nhân vật “em” đã có những cách lí giải khác nhau. Có thể là những cô gái dân tộc miền núi rừng Tây Bắc, mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình, múa những điệu Lâm Tơi, Lâm Vông để phục vụ cán bộ kháng chiến và những anh chàng lính trẻ. “Em” cũng có thể hiểu là những cô trong các đoàn văn công về phục vụ văn nghệ làm giàu có thêm đời sống tinh thần của những người chiến sĩ. Sau bao chặng đường hành quân chiến đấu vất vả gian lao giờ là những phút nghỉ ngơi, thư giãn tinh thần bỏ lại sau lưng bao mệt mỏi, nhọc nhằn của hiện thực cuộc sống. Và “em” cũng có thể chính là những anh chàng lính trẻ. Trong nhật kí trung đoàn có ghi lại: Trong đoàn quân, có những chàng lính trẻ, dáng người mảnh mai, nhỏ nhắn, giả trang làm con gái, khi lên sân khấu diễn cũng tình tứ, duyên dáng như ai bởi sự e ấp, thẹn thùng.
Câu thơ cuối ngời sáng lí tưởng người bộ đội Cụ Hồ. Người đọc cứ tưởng rằng, trước sắc màu lung linh của những bộ xiêm áo, trước điệu nhạc miên man, du dương trầm bổng, trước những điệu múa yêu kiều, duyên dáng, tình tứ, uyển chuyển những chàng trai Hà Thành sẽ bị hút hồn vào đêm liên hoan văn nghệ. Đó cũng là những phút giây lắng lòng để nghỉ ngơi sau một chặng đường dài hành quân mệt mỏi. Nhưng không, có lẽ chúng ta đã lầm tưởng bởi trong giây phút thăng hoa với nghệ thuật, cảm xúc cũng là lúc người lính sống đúng với khát khao cháy bỏng của mình:
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Tiếng nhạc phiêu bồng đưa tâm hồn người lính thoát khỏi thời gian và không gian hiện tại, chơi vơi sang tận thủ đô Viêng Chăn của Lào. Người đọc chắc hẳn đã đặt câu hỏi vì sao? Thủ đô là trung tâm đầu não của một quốc gia. Khi thủ đô còn bóng một kẻ thù nào thì dân tộc đó chưa có độc lập. Và khi bóng giặc bị đẩy ra khỏi thủ đô cũng là lúc nam bang, bốn cõi đã cất lên khúc ca khải hoàn. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra tại Viêng Chăn của Lào ắt sẽ là đêm liên hoan vui niềm vui trọn vẹn, niềm vui trong chiến thắng. Có thể thấy, trong lúc mộng mơ nhất, người lính Tây Tiến vẫn không quên nhiệm vụ của mình. Vẫn cháy bỏng một khát khao quét sạch bóng quân thù ra khỏi biên cương, bờ cõi. Đó là khát vọng của lí tưởng chân chính, đúng đắn.
Sau những vần thơ rực rỡ sắc màu, lung linh ánh sáng và chan chứa niềm vui về đêm liên hoan lửa trại thắm tình quân dân, Quang Dũng tiếp tục đưa người đọc về với cảnh Sông nước miền Tây mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Có lẽ người đọc sẽ băn khoăn đặt lên một dấu hỏi: Người đi là ai? Phải chăng đó là những chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến trên đường trường hành quân đã đi qua mảnh đất Châu Mộc của Hòa Bình. Và giờ đây khi ngồi nhớ về Tây Tiến, Quang Dũng đã nhớ đến khoảnh khắc đầy ắp những kỉ niệm cùng đồng đội thân yêu, nhớ từng khuôn mặt, từng bóng hình thân quen. Câu thơ xuất hiện một cụm từ chỉ thời gian “chiều sương ấy”. Không định vị cụ thể đó là thời gian nào nhưng Quang Dũng chắc còn nhớ như in đó là một buổi hành quân trong chiều sương mù giăng mắc, bao phủ mênh mang khắp núi rừng, sông suối. Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật tài hoa.
Không gian tràn ngập một màu trắng mờ mờ, bàng bạc của làn khói sương hư ảo chốn núi rừng Tây Bắc. Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước, bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. Những cây lau không còn vô tri vô giác mà ẩn chứa linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang giăng mắc, neo đậu bến bờ. Những bông lau nở trắng khắp bờ sông, phất phơ trong làn gió nhẹ và sương khói lam chiều, nó không chỉ mang hồn cốt của mảnh đất miền Tây mà còn kí thác anh linh của những người đã ngã xuống vì tổ quốc thân yêu. Câu thơ này gợi người đọc nhớ tới câu thơ đầy ám ảnh của bà Huyện Thanh Quan xưa khi nhớ về kinh đô Thăng Long cổ kính qua linh hồn cây cỏ:
Lối xe ngựa cũ hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Và nay Quang Dũng nhớ da diết núi rừng Tây Bắc qua hồn lau lay động bến bờ.
Dòng sông miền Tây hiện lên không hiền hòa êm dịu như những con sông nơi đồng bằng mà nó cuộn xoáy và càng dữ dội hơn khi mùa nước lũ tràn về. Bên bờ sông có những bông hoa dại nở, khi nước lũ tràn về, dâng cao làm ngập những đóa hoa rừng. Dòng nước vì yêu hoa nên muốn kéo hoa đi cùng nhưng vì hoa yêu đất nên hoa vấn vương ở lại. Kết quả là bông hoa cứ đong đưa chao mình trên dòng nước lũ, dùng dằng nửa ở, nửa đi nhưng vấn vương không nỡ nên cứ làm mình làm mẩy, làm duyên làm dáng trên dòng sông. Tình cây- tình đất, bông hoa – dòng nước đang cố giao hòa giao cảm làm nên cái duyên đẹp của thiên nhiên, đất trời.
Và có lẽ, hình ảnh trung tâm, điểm nhấn của bức tranh là hình ảnh con người chèo thuyền độc mộc trên dòng nước lũ. Con thuyền độc mộc là một loại thuyền chỉ xuất hiện trên những dòng sông thác dữ giữa núi rừng. Nó không giống như thuyền thắt đuôi én, thuyền nan ở những con sông vùng đồng bằng. Con thuyền được làm từ thân một cây gỗ lớn, được đục và khoét thân nên thuyền rất chắc chắn. Dáng người chèo thuyền độc mộc xuất hiện uyển chuyển, tình tứ. Đó là ai, người con gái hay con trai? Có lẽ người đọc dễ dàng nhận ra dáng uyển chuyển ấy chỉ có thể là những cô thiếu nữ chèo thuyền đưa các chiến sĩ qua sông. Để rồi khi đã sang sông nhưng bao chàng còn ngẩn ngơ, còn làm thơ, còn vấn vương mãi trong tim bóng hình uyển chuyển, mềm mại ấy và rồi bỗng nhiên nó trở thành một hình ảnh trong kỉ niệm ngọt ngào neo đậu mãi trong tim những chàng trai trẻ.
Người đọc cảm nhận được sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người lao động bình dị. Hình ảnh thiên nhiên với những bông hoa đang làm duyên, làm dáng, đong đưa trên dòng nước lũ thì con người cũng đang duyên dáng, uyển chuyển tựa tay lái nở hoa trên dòng sông. Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say. Ở đây cảnh như làm duyên với người. Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời. Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
Có thể nói, thành công của đoạn thơ chính là sự hòa quyện giữa chất họa, chất nhạc và chất thơ làm thành một. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này. Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là “hoa đong đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.
Tám câu thơ thật đẹp, thật đặc sắc. Nó như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tinh tế, mềm mại, sâu lắng. Từ đó, nhà thơ đưa người đọc vào thế giới của cái đẹp, một thế giới của cõi mơ đầy ánh sáng, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc và cả vũ đạo. Tám câu thơ, hai khung cảnh nhưng chung một xúc cảm say đắm, mơ mộng. Phải là một tâm hồn thật tinh tế, nhạy cảm, Quang Dũng mới có thể chắp bút viết nên những vần thơ hay đến thế! Với những thành công về phương diện nội dung cũng như nghệ thuật biểu hiện, “Tây Tiến” xứng đáng ở vị trí là một trong những tác phẩm hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp , đưa tên tuổi nhà thơ Quang Dũng sống mãi cùng bạn đọc muôn thế hệ.
>>> Xem thêm: