Tổng hợp dàn ý, phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu trong chương trình Ngữ văn 11 Cánh Diều hay nhất, giúp các bạn học sinh có thêm tư liệu tham khảo đạt điểm cao môn Ngữ Văn.
a. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b. Thân bài:
- Đoạn 1: Mở đầu khung cảnh mùa thu thật đặc biệt trong mắt nhà thơ Xuân Diệu
+ Mùa thu thật buồn với rặng liễu rủ như người phụ nữ đang phải chịu tang với mái tóc xõa dài và hàng lệ rơi
+ Mùa thu tới thật rồi, nhưng lại khoác lên mình màu vàng ảm đảm, thê lương
- Đoạn 2: Mùa thu buồn hơn cùng với sự góp mặt của sự vật khác
+ Hoa rụng cành, cây thay lá
+ Cành cây rụng lá bị gió thổi qua thật yếu đuối, mong manh.
=> Cảnh mùa thu càng thêm u sầu, bao trùm lên mọi sự vật. Cũng là tâm trạng tác giả trước cách mạng năm 1945, cuộc sống nhân dân ta cũng u buồn chịu cảnh mất nước.
- Đoạn 3: Mùa thu buồn xuất hiện hình dáng con người
+ Vầng trăng được nhân hóa thành nàng trăng như một nàng thiếu nữ đang ngẩn ngơ
+ Sương mờ mùa thu bao phủ khiến cho không thể nhìn rõ cảnh núi non
+ Mùa thu nhưng đã có gió heo may, khiến nhiều hôm rét buốt
=> Chính vì vậy nên hoạt động của con người chậm lại, không còn sôi động như mùa hè, làm cho con đò sang sông vắng khách
- Đoạn 4: Nỗi buồn nhà thơ dâng cao hơn bao giờ hết
+ Mây thì tách ra thành từng khóm nhỏ, chim cũng bay đi không còn hót vui
=> Sự buồn bã, chia ly khiến cho tác giả uất hận dâng cao tận trời
+ Những cô thiếu nữ thì thơ thẩn tựa cửa, mong ngóng người thương chiến thắng quân xâm lược, sớm ngày về
c. Kết bài:
Khái quát lại bài thơ và tâm trạng nhà thơ Xuân Diệu
>>> Tham khảo: Tóm tắt Đây mùa thu tới
Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình” của văn chương Việt Nam. Một trong những bài thơ tiêu biểu của ông là “Đây mùa thu tới” in trong tập “Thơ thơ” được xuất bản năm 1938. Bài thơ là những sự thay đổi của thiên nhiên, đất trời khi mùa thu đến.
Hè đi rồi thu lại đến, một mùa thu gợi nhớ những bình yên của cảnh vật và con người. Xuân Diệu luôn để ý và phát hiện ra từng chút thay đổi của thiên thì làm sao mà không cảm nhận được mùa thu tới được. Các nhà thơ khác khi nhắc đến mùa thu thường miêu tả về hoa sữa, hoa cúc. Thì ở đây, tác giả lại miêu tả những rặng liễu đang “đứng đìu hiu như chịu tang”. Đây là một hình ảnh so sánh rất độc đáo, được liên tưởng như những người thiếu nữ đang khóc. Qua con mắt của Xuân Diệu, mùa thu đến sẽ càng rõ nét hơn qua những sự thay đổi của thiên nhiên và cảnh vật. Tác giả đã liệt kê ra hàng loạt các cảnh vật có những bông hoa, chiếc lá, những nhánh cây. Ở đó như phảng phất những nỗi buồn khi hoa rụng cành, nhánh cây thì khô gầy mỏng manh. Những khung cảnh vừa xen chút lãng mạn nhưng cũng mang mác buồn đến nao lòng.
Mùa thu không chỉ lan rộng ra cảnh vật thiên nhiên, mà còn lan rộng ra khắp đất trời với trăng, non xa và những chuyến đò. Qua đó ta thấy được sự đồng điệu giữa các cảnh vật và thiên nhiên. Đoạn cuối chính là những cái tâm trạng, cảm xúc của con người khi mùa thu tới. Con người thì chia tay sau mỗi chuyến đò, con vật thì chia ra mỗi ngả khác nhau. Xuân Diệu đã mang đến một màu xám xịt, buồn mang mác và mang đầy tâm trạng. Nhà thơ đặc biệt hay so sánh mùa thu với các thiếu nữ. Phải chăng chính bởi các thiếu nữ vừa trẻ trung, duyên dáng nhưng lại đa sầu đa cảm như cái không khí mùa thu đang tới trong thơ Xuân Diệu. Đó chính là cái riêng, cái độc đáo mà chỉ riêng Xuân Diệu mới có.
“Đây mùa thu tới” của Hữu Thỉnh đã vẽ ra cho người đọc một bức tranh mùa thu với thật nhiều màu sắc và cảm xúc. Người đọc sẽ càng yêu những tác phẩm của Xuân Diệu.
Đề tài mùa thu luôn là nguồn cảm hứng để các thi sĩ sáng tạo và vẽ ra bức tranh thiên nhiên của riêng mình. Xuân Diệu cũng đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên mùa thu qua tác phẩm “Đây mùa thu tới” bằng tất cả những cái cảm nhận tinh tế của mình.
Xuân Diệu đã đặc biệt tinh tế và cảm nhận khi mùa thu đến một cách nhẹ nhàng, dịu dàng qua sự thay đổi của cảnh vật. Đó là hình ảnh những “rặng liễu” như những người thiếu nữ đang đứng chịu tang. Những cành mơ đã được thay những chiếc áo xanh thành những chiếc lá vàng. Những loài hoa cành cây cũng đang dần thay đổi khi mùa thu đến. Đó không phải sự sôi nổi sự rực rỡ mỗi mùa xuân sang, mà nó dịu dàng còn mang mác chút buồn của cảnh vật. Đặc biệt ở khổ ba tác giả đã dùng rất nhiều những dấu ba chấm sau mỗi câu thơ miêu tả cảnh vật. Đây chính là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Những hình ảnh về trăng, non xa, những chuyến đò như còn đang day dứt, lưu luyến gì đó. Ở đó cảnh vật mang sự ảm đạm, ngẩn ngơ như những người thiếu nữ.
Trong thơ của Xuân Diệu ông còn gắn mùa thu với sự chia ly. Đó là lúc những đàn chim di cư bay đi, mây thì vẩn đục từng không. Tâm trạng con người cũng buồn man mác trước cảnh vật. Cũng viết về mùa thu, “Sang thu” của Hữu Thỉnh lại được ông cảm nhận qua tất cả những giác quan. Mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh như mang một bức tranh yên bình, con người cảnh vật chậm rãi cảm nhận mùa thu đến. Cả hai nhà thơ đều có những cảm nhận khi thu đến rất riêng, nhưng tất cả đều khiến bức tranh mùa thu thêm sống động và đẹp hơn rất nhiều trong lòng người đọc.
Cái tài và cái tình đã được Xuân Diệu khắc họa qua những câu thơ của “Đây mùa thu tới” thật sâu sắc và đẹp. Những nét bút của ông như chạm khắc những tình cảm vào thiên nhiên và cảnh vật, để từ đó bức tranh mùa thu như được khoác một màu áo của riêng riêng thơ Xuân Diệu.
"Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh người chinh phụ
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô"
Đây chính là lời của bài thơ Tiếng thu của nhà thơ Lưu Trọng Lư, một bài thơ bất hủ về mùa thu. Không giống với mùa xuân tràn ngập sức sống, mùa hạ sôi động, mùa đông tĩnh lặng. Mùa thu rất tình và mang một vẻ đẹp dịu dàng đến lạ. Thu là nốt trầm nhẹ nhàng của thời gian và đất trời. Có lẽ vì vậy nên mùa thu được rất nhiều nhà thơ, nhà văn lựa chọn làm chủ đề sáng tác. Mùa thu đậm chất trữ tình như vậy, sao có thể thiếu đi sáng tác của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu được, đó chính là bài thơ Đây mùa thu tới. Bài thơ nằm trong tập Thơ thơ của Xuân Diệu, ra đời năm 1938. Qua bài thơ, chúng ta sẽ cảm nhận được mùa thu mang tới vẻ đẹp mơ màng nhưng ẩn chứa trong đó lại là nỗi buồn của chính tác giả.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh thiên nhiên khúc trở mình từ hạ sang thu:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
Mùa thu dưới ngòi bút Xuân Diệu vẫn đẹp, nhưng vẻ đẹp đó sao buồn quá. Rặng liễu trong gió thu nhè nhẹ không phải là thướt tha, yểu điệu mà lại là “đìu hiu”, cô quạnh, được Xuân Diệu ví như “đứng chịu tang”. Câu thơ tiếp theo, nhà thơ lại tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa cho rặng liễu, khiến cho nó sinh động, như là một người phụ nữ đang u sầu khi đứng chịu tang, tóc “buồn buông xuống”. Rồi người phụ nữ đó còn “lệ ngàn hàng”, giống như từng lá liễu rủ xuống là từng giọt nước mắt đang rơi vậy. Khung cảnh mở đầu mùa thu thật ảm đảm, trầm uất. Giật mình ở câu thơ tiếp theo, tác giả thông báo mùa thu tới bằng nghệ thuật điệp ngữ nổi bật, khiến người đọc tưởng rằng đây là dấu hiệu mùa thu mang vui vẻ xua tan đi nỗi buồn. Nhưng không, càng vào chính thu, quang cảnh lại khoác lên mình chiếc áo “mơ phai dệt lá vàng”, một màu sắc nhạt nhòa, không có sức sống, càng khiến cho thu thê lương hơn.
Khổ thơ tiếp theo, người đọc càng cảm nhận được rõ tâm trạng buồn rầu của nhà thơ qua cách cảm nhận khung cảnh xung quanh, bởi người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Các loài hoa đến mùa thu đều “rụng cành”, các loài cây cũng thay nhau rụng lá, lá bị “rũa màu xanh”, trở thành sắc đỏ. Khung cảnh tiêu điều lại thêm sắc đỏ, khiến mùa thu đã buồn giờ còn thêm phần u ám. Cơn gió mùa thu tuy nhè nhẹ, thường đem lại sự dễ chịu cho con người giờ lại len lỏi qua các cành cây trơ trọi lá, tác giả so sánh chúng với những bộ xương khô gầy, “mỏng manh” yếu đuối. Cây cối và hoa cỏ giờ đây đượm màu buồn thương. Cũng chính là tâm trạng của nhà thơ Xuân Diệu và nhiều người khác, trước cách mạng tháng tám năm 1945, cuộc sống của nhân dân vẫn chưa rõ bến bờ, vẫn phải chịu cảnh mất nước.
Hình ảnh con người bắt đầu xuất hiện trong khung cảnh mùa thu:
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…”
Nhà thơ Xuân Diệu sử dụng biện pháp nhân hóa vầng trăng thành một “nàng trăng”,như cô thiếu nữ với nhiều tâm sự, thường tự ngồi “ngẩn ngơ”. Núi non mùa hạ có thể nhìn thấy rõ sự hùng vĩ nay nhìn không rõ do bị sương mờ che phủ. Mùa thu buồn vắng đi cả sự nhộn nhịp của cuộc sống con người, do vào thu trời đã chớm lạnh, nhiều hôm còn “rét mướt”, trong từng luồn gió thổi về, khiến con người dường như hoạt động chậm lại, không còn nhiệt huyết và sôi động như mùa hè. Chính vì thế mà những con đò vắng người hơn, nên mùa thu trên sông nước càng trầm lắng, hiu quạnh hơn bao giờ hết.
Toàn bộ cảnh vật nhuốm sắc thu buồn như vậy dường như vẫn không lột tả được hết nỗi buồn trong lòng nhà thơ Xuân Diệu, ở đoạn cuối bài thơ, nỗi buồn càng dâng cao hơn bao giờ hết:
“Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.
Giờ đây cảnh vật không chỉ còn buồn, mà còn sinh ly tử biệt với nhau. Mây tách ra thành “từng không”, không còn là những đám mây trắng nặng nề to lớn nữa. Chim thì bay đi các nơi không còn tụ tập hót líu lo yêu đời. Rồi tất cả nỗi buồn trước mùa thu, sự chia ly của nhà thơ Xuân Diệu đã uất hận đến tận “khí trời”. Nhà thơ tự đặt mình vào tâm trạng những người thiếu nữ, có nỗi buồn thường không nói ra, hay thơ thẩn nhìn ra xa nghĩ ngợi về điều gì đó, có lẽ cũng là nỗi lo cho đất nước và mong ngóng người thương bảo vệ được tổ quốc, thắng lợi trở về chăng?
Bài thơ Đây mùa xuân tới của nhà thơ Xuân Diệu thật buồn và chất chứa nhiều tâm trạng. Cảnh vật mùa thu dưới ngòi bút trữ tình đa tài của Xuân Diệu đã được khắc họa thật sinh động và mang theo nỗi buồn giống tâm trạng của tác giả. Qua đó người đọc cảm nhận được khung cảnh mùa thu thật ảm đảm, thê lương và tâm hồn tinh tế, đa sầu đa cảm của nhà thơ Xuân Diệu.