logo

Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão. Với những bài văn mẫu ngắn gọn, chi tiết, hay nhất dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 

Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão - Toploigiai


Bài mẫu số 1 - Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”của Phạm Ngũ Lão

    Yêu nước từ ngàn xưa đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc ta, trờ thành cảm hứng sáng tác của bao tác giả. "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là 1 trong những tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước. Bài thơ đã gửi gắm những tư tưởng và giá trị sâu sắc, tốt đẹp.

     Bài thơ ra đời mang trong mình hào khí Đông A hào hùng anh dũng. Thời Trần là một mốc son chói lọi trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, với những kì tích vĩ đại. Chủ nghĩa yêu nước được thể hiện trước hết qua niềm tự hào khi diễn tả hào khí dân tộc với hình ảnh “Ba quân”, tạo nên một bức tranh tượng đài nghệ thuật sừng sững:

“Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu“

      Câu thơ đã khắc họa hình ảnh người anh hùng đang trong tư thế hiên ngang, vững chãi. "Hoành sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo. Người anh hùng với sứ mệnh trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi, ròng rã đã bao năm mà không biết mệt mỏi. Con người được đặt trong một không gian kì vĩ giữa sông núi đất trời nên bỗng hóa vĩ đại ngang tầm vụ trụ. Hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần xông pha sẵn sàng chiến đấu, cho tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường. Còn "ba quân", ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Nói đến “ba quân” là nói đến sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của toàn dân tộc đang sục sôi. Với thủ pháp so sánh khéo léo, câu thơ thứ 2 đã làm toát lên khí thế, “Tam quân tỳ hổ”, ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, vững mạnh và oai hùng. Từ đó, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào về sự trưởng thành, lớn mạnh của quân đội. Thủ pháp phóng đại “Khí thôn ngưu” - ý nói thế quân đội mạnh mẽ lấn át cả Sao Ngưu hay là khí thế hào hùng nuốt trôi trâu cũng ca ngợi sức mạnh phi thường của quân đội.

     Hai câu thơ đầu đã khắc họa vẻ đẹp người anh hùng dân tộc, hài hòa trong vẻ đẹp của thời đại, gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn. Tác giả đã bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng cũng như là của toàn dân tộc nói chung

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu “

      Hai câu thơ gửi gắm lí tưởng của người anh hùng. Nhắc đến chí là nhắc đến chí làm trai, lập công là để lại công danh, sự nghiệp, để lại danh tiếng cho muôn đời, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng đã lập biết bao chiến công hiển hách nhưng vẫn trăn trở, canh cánh trong lòng chưa trả xong nợ công danh. Đó không phải sự thái quá hay kiêu kỳ mà là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phò vua giúp nước, là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước, muốn được cống hiến hết mình và sẵn sàng hi sinh.

     Câu thơ đã thể hiện được cái chí và cái tâm của người anh hùng. Đặc biệt khi nhắc đến Vũ Hầu và suy nghĩ “Thẹn với Vũ Hầu” – thẹn với Gia Cát Lượng - một người tài năng và nhân cách vẹn toàn, tác giả đã thể hiện thành công tư tưởng tiến bộ của mình. Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho đất nước nhưng vẫn thấy thẹn. Nỗi thẹn ấy giúp người đọc nhận ra được thái độ khiêm nhường, ý nguyện cháy bỏng được giết giặc, lập công đóng góp cho sự nghiệp chung của Tổ quốc.

      Có thể nói với những biện pháp nghệ thuật khéo léo bài thơ đã xây dựng thành công tượng đài hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá cường địch báo hoàng ân, bảo vệ non sông được vững vàng. Nó không chỉ miêu tả vẻ đẹp người anh hùng mà còn thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của nhà thơ. "Tỏ lòng" vì lẽ đó đã trở thành một tác phẩm tiêu biểu, sức sống bền lâu trong lịch sử văn học dân tộc.


Bài mẫu số 2 - Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”của Phạm Ngũ Lão

      Thuật hoài là một tác phẩm nổi tiếng của danh tướng đời Trần Phạm Ngũ Lão. Dù được xếp vào loại thơ trữ tình, nhưng từng câu từng chữ lại toát lên cái hào khí Đông A ngút trời của thời đại đó.

     Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một người văn võ song toàn, sống thời thời Trần, là vị danh tướng trăm trận trăm thắng. Ông được biết đến sau những chiến công hiển hách chống lại giặc xâm lược Mông - Nguyên. 

     Phạm Ngũ Lão sáng tác không nhiều, hiện nay tác phẩm còn lại của ông chỉ có hai bài thơ chữ Hán, trong đó có bài thơ thất ngôn tứ tuyệt "Thuật hoài" (dịch ra là Tỏ lòng).

     Thuật hoài được sáng tác trong một bối cảnh đặc biệt, bối cảnh an nguy của nước nhà đang bị đe dọa bởi quân Mông - Nguyên hung tàn, bối cảnh mọi tầng lớp của dân tộc nhất trí đồng lòng chống lại ách xâm lược, giữ vững non sống gấm vóc cha ông để lại.

      Bài thơ được chia làm hai phần rất rõ ràng. Hai câu mở đầu thể hiện hình tượng của quân đội và con người thời Trần, hai câu sau chính là lời bày tỏ nỗi lòng của tác giả.

     Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên hình ảnh tráng lệ của con người và quân đội thời Trần, qua âm hưởng sảng khoái, hào hùng:

Hoành sóc giang san kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

     Qua hai câu thơ này, hình ảnh đấng nam nhi lẫm liệt oai phong đang xả thân vì nước như hiện lên rõ ràng trước mắt. Cũng từ đó, ta cảm nhận được một hào khí Đông A ngút trời của một thời đại anh hùng trong lịch sử.

     Trong đó, câu thơ "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu" thể hiện hình ảnh người lính cầm ngang ngọn giáo, luôn trong một tư thế hiên ngang, sẵn sàng tấn công, áp đạo quân thù xâm lược một cách dũng mãnh để bảo vệ giang sơn rộng lớn suốt thời gian dài. Có thể nói, đây cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho dân tộc Việt mạnh mẽ, quật cường, không bao giờ chịu khuất phục, là ánh hào quang tỏa sáng ngời ngời của chủ nghĩa yêu nước, yêu chính nghĩa.

     Câu thơ thứ hai "Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu" (dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu), dịch nghĩa là khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời, còn có cách dịch khác là "Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu". Cho dù hiểu theo cách nào thì người đọc cũng đều cảm nhận được sức mạnh vô cùng to lớn, không đối thủ nào có thể địch nổi của quân dân ta.

     Chỉ với hai câu thơ, mười bốn chữ, nhưng Phạm Ngũ Lão đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về người lính quả cảm, dũng mãnh, oai hùng trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần. Đồng thời nó cũng thể hiện chí khí, khát vọng sục sôi của đấng nam nhi thời loạn. Phạm Ngũ Lão cũng như bao chí sĩ thời đó, đều nguyện hiến dâng thân mình cho lý tưởng ái quốc, trung quân, khát vọng công danh và trong trách bảo về non sông, gấm vóc như hòa làm một.

     Bởi thế cho nên bậc nam nhi như ông mới cảm thấy hổ thẹn khi chưa thể hoàn thành nghiệp công danh. Nỗi lòng ấy được tác giả thể hiện qua hai câu thơ cuối:

"Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu"

    Hai câu thơ này có thể hiểu là nam tử chưa hoàn thành chuyện công danh, khi nghe chuyện Vũ Hầu liền lấy làm hổ thẹn. Vũ Hầu ở đây chính là Khổng Minh, nhà quân sư lỗi lạc của Lưu Bị nói riêng và của thời Tam Quốc, cũng như toàn lịch sử nhân loại nói chung.

     Điều Phạm Ngũ Lão muốn bày tỏ chính là đấng nam nhi phải biết lấy gương sáng của người xưa mà so sánh, để phấn đấu cho xứng với tiền nhân. Niềm khát vọng công danh của tác giả, thực chất là khát vọng được cống hiến tuổi trẻ, công sức, tài năng cho Vua, cho giang sơn xã tắc, để có thể ngẩng cao đầu sống giữa thời đại anh hùng.

    Nếu như hai câu mở đầu bài thơ là âm hưởng hào sảng, chí khí ngút trời, thì hai câu sau, tác giả đã chuyển sang cảm xúc trữ tính, như lột tả nỗi lòng mình bằng giọng điệu thâm trầm, da diết, nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, hùng hồn.

     Bài thơ chính là minh chứng rõ ràng nhất cho một võ tướng tài ba "bách chiến bách thắng" lại sở hữu một trái tim nhạy cảm của thi nhân. Thuật hoài chính là tác phẩm xuất sắc, thể hiện nỗi lòng của tác giả, cũng là nỗi lòng chung của tuổi trẻ hùng tráng và lột tả hào khí đời Trần.

Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão - Toploigiai (ảnh 2)


Bài mẫu số 3 - Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”của Phạm Ngũ Lão

     Từ ngàn xưa, nhân dân ta đã có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước mỗi khi đất nước cần. Lòng yêu nước được thể hiện qua nhiều lĩnh vực nhưng có lẽ nổi bật nhất vẫn là ở lĩnh vực văn học. Trong các bài thơ của ông, có một tác phẩm rất đặc biệt “Tỏ lòng” đây chính là tác phẩm đã làm toát lên rất rõ về vẻ đẹp, khí thế của con người nhà Trần. Phạm Ngũ Lão là danh tướng thời Trần, có công rất lớn trong công cuộc chống Nguyên - Mông. “Tỏ lòng” được ông sáng tác khi cuộc chiến lần thứ hai Nguyên - Mông đang đến rất gần, nhằm khơi dậy sức mạnh toàn dân. Lúc đó, tác giả cùng một số vị tướng khác được cử lên biên ải Bắc trấn giữ nước.

     Nói đến hào khí Đông A là nói đến hào khí đời Trần. Thời này là một mốc son chói lọi trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, quân và dân thời Trần đã kiên cường anh dũng lập nên 3 kì tích: 3 lần đại thắng quân Nguyên - Mông, để có được thắng lợi đó, quân dân thời Trần đã phải vượt qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ, căm thù giặc sôi sục cùng lòng quyết tâm chiến thắng. Hào khí dân tộc thể hiện ở sự hòa quyện giữa hình ảnh người anh hùng với hình ảnh “Ba quân” đã tạo nên một bức tranh tượng đài nghệ thuật sừng sững đang hiện ra

“Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu“

    Câu thơ đầu khắc họa một hình ảnh người anh hùng đang trong tư thế hiên ngang, vững chãi, “Hoành sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo, với sứ mệnh trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi ròng rã đã mấy năm rồi mà không biết mệt mỏi. Con người đó được đặt trong một không gian kì vĩ: núi sông, đất nước khiến con người trở nên vĩ đại sánh ngang với tầm vóc vụ trụ. Hình ảnh còn mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần xông pha sẵn sàng chiến đấu, một tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường. Tiếc thay, khi ta chuyển dịch thành “múa giáo” thì phần nào đã làm hai chữ “hoành sóc” giảm đi tính biểu tượng và tư thế oai phong lẫm liệt của hình tượng vĩ đại này. Ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Tuy nhiên, khi nói đến “ba quân” thì sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của toàn dân tộc đang sục sôi biết bao. Câu thơ thứ hai sử dụng thủ pháp so sánh để làm toát lên khí thế, “Tam quân tỳ hổ” chính là ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, nó vững mạnh và oai hùng. Nhờ đó, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào về sự trưởng thành, và lớn mạnh của bậc quân đội. Không chỉ thế, câu thơ còn sử dụng thủ pháp phóng đại “Khí thôn ngưu” - khí thế quân đội mạnh mẽ lấn át cả Sao Ngưu hay là khí thế hào hùng nuốt trôi trâu. Như vậy, hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp người anh hùng hòa trong vẻ đẹp của thời đại hào hùng tạo nên những con người anh hùng. Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn. Qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng cũng như là của toàn dân tộc nói chung. 

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu “

     Qua hai câu thơ trên, lí tưởng của người anh hùng đang được thể hiện rõ qua hai cặp từ “nam nhi và công danh”. Nhắc đến chí là nhắc đến chí làm trai, lập công là để lại công danh, sự nghiệp để lại danh tiếng cho muôn đời, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng có nỗi trăn trở, canh cánh trong lòng là chưa trả xong nợ công danh mặc dù con người ấy đã lập lên bao nhiêu chiến công rồi. Đó chính là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phò vui giúp nước, trong không khí sục sôi của thời đại bấy giờ, chí làm trai có tác dụng cỗ vũ cho con người sẵn sàng chiến đấu giành lại hòa bình cho đất nước.

     Ở câu cuối của bài thơ, nói lên cái tâm của người anh hùng, điều đáng quý bên cạnh Trí là còn có cái tâm. “Thẹn với Vũ Hầu” – Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, một tài năng, một nhân cách, một người có tâm, tác giả thẹn vì chưa có tài mưu lược như Gia Cát Lượng chăng? Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho đất nước nhưng vẫn thấy thẹn. Qua nỗi thẹn ấy, người đọc nhận ra thái độ khiêm nhường, một ý nguyện cháy bỏng được giết giặc, lập công đóng góp cho sự nghiệp chung

     Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá được cường địch để báo đáp hoàng ân, để non sông được vững vàng. Vẻ đẹp của người anh hùng lồng trong vẻ đẹp của thời đại làm nên hào khí của thời đại nhà Trần, hào khí Đông A. Bài thơ cũng là nỗi lòng riêng của Phạm Ngũ Lão về khát vọng lí tưởng, về nhân cách của con người phải được giữ gìn.


Bài mẫu số 4 - Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”của Phạm Ngũ Lão

    Phạm Ngũ Lão là một trong những danh tướng nước ta thời nhà Trần. Ông không viết thơ nhiều nhưng tác phẩm của ông đều để lại những dấu ấn riêng. Bài thơ "Thuật hoài" hay còn gọi là "tỏ lòng" là một tác phẩm nổi tiếng của Phạm Ngũ Lão thể hiện tình yêu nước nồng nàn cùng niệm tự hào và khát vọng cống hiến khi tổ quốc bị xâm lăng.

"Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân kỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"

     Bài thơ tỏ lòng được sáng tác bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật, tuy ngắn gọn với bốn câu thơ nhưng lại mang nhiều hàm ý sâu sắc.

     Mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã tái hiện hình ảnh quân đội nhà Trần manh mẽ, oai phong thời ấy trên con đường đánh đuổi giặc ngoại xâm:

"Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân kỳ hổ khí thôn ngưu"
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạng nuốt trôi trâu)

     Hình ảnh người tráng sĩ thời Trần hiện lên trong câu thơ thật oai phong, lẫm liệt qua hình ảnh cây "giáo". Tư thế của người tráng sĩ hiên ngang ấy được đặt trong không gian rộng lớn của "giang sơn" và thời gian dài "kháp kỉ thu". Câu thơ thể hiện sức mạnh khỏe khoắn, tư thế hiên ngang sẵn sàng chiến đấu của người tráng sĩ xưa. Người tráng sĩ ấy đứng giữa non sông đất nước hùng vĩ, luôn vững vàng bảo vệ tổ quốc đã mấy thu rồi. Hình ảnh con người hiện lên thật đẹp đẽ, oai phong như vẽ lên một bức tượng đài bất tận về tráng sĩ oai hùng thời Trần.

      Không chỉ hình ảnh một tráng sĩ hiện lên oai hùng, mà cả "tam quân" thời Trần được khắc họa thật mạnh mẽ phi thường. Hình ảnh ẩn dụ, phóng đại "hổ khí thôn ngưu" là một hình ảnh đẹp, mang tầm vóc lớn. "Hổ khí thôn ngưu" mang ý nghĩa như hổ báo "nuốt trôi trâu" có ý nghĩa lớn trong việc tái hiện khí thế hào hùng của đội quân nhà Trần. Hiện lên trong tâm trí người đọc là ba đội quân hùng hậu, đông đảo với sức mạnh to lớn đang ra quân ào ào và khát vọng chiến đấu hết mình cho giang sơn đất nước. Khí thế hào hùng này là khí thế của một thời hào khí Đông A , gợi cho ta nhớ đến những câu oai hùng trong bài Hịch tướng sĩ thời Trần "Ta thường tới bữa quên ăn , nữa đêm vỗ gối , ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng".

     Với hào khí của một thời chiến đấu oai hùng, bảo vệ từng mảnh đất cho giang sơn đất nước, Phạm Ngũ Lão tiếp tục nói lên những suy nghĩ của bản thân về trí làm trai thời ấy:

"Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)

     Phạm Ngũ Lão đã nhắc đến món nợ công danh "công danh trái". Đối với những người nam nhi sống trong thời đại xưa, con đường công danh vô cùng quan trọng. "Nợ công danh" ở đây không phải là công danh tầm thường, ích kỷ cho riêng bản thân mình. Mà nó chính là món nợ lớn với đất nước, là ý trí và tài năng của một người nam tử hán đại trượng phu, đầu đội trời chân đạp đất, dám hi sinh vì nghĩa lớn, vì sự nghiệp chung của toàn dân tộc. Qua câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện nỗi lòng, khát khao của bản thân muốn cống hiến nhiều hơn nữa cho giang sơn, đất nước để trả món nợ công danh của trí làm trai. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng từng có nhiều vần thơ hay khi nói về "phận sự làm trai" :

"Vũ trụ chức phận nội
Đấng trượng phu một túi kinh luân.
Thượng vị đức, hạ vị dân,
Sắp hai chữ "quân, thân" mà gánh vác"

     Phạm Ngũ Lão đã là một danh tướng, có công lớn với đất nước với thời nhà Trần. Vậy mà ông vẫn luôn cảm thấy hổ thẹn khi nghe "thuyết Vũ Hầu". Ông đã khéo léo khi nhắc đến một người dung trí đa mưa là Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc để thể hiện nỗi thẹn của mình. Ông thẹn bởi chưa đủ tài cao, mưu trí như Gia Cát Lượng. Nhưng cái "thẹn" ấy lại càng làm toát lên nhân cách cao đẹp trong con người Phạm Ngũ Lão. Câu thơ thể hiện một khát khao cháy bỏng của bị tướng có tài, muốn cống hiến hết mình trong sự nghiệp chung của đất nước. Đó là trí khí anh hùng của một vị tướng vừa có tâm, vừa có tầm đáng kính trọng.

     Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, lời thơ đanh thép, hào hùng, hình ảnh thơ độ đáo, nhịp thơ khi nhanh mạnh rứt khoát, lúc lại chậm rãi như những dòng suy tư. Bài thơ đã gợi lên một thời hào hùng của cả dân tộc thời đại nhà Trần cùng ý trí sục sôi chiến đấu của người tráng sĩ và mong muốn cống hiến hết mình cho đất nước của danh tướng Phạm Ngũ Lão. Bài thơ cùng thời đại này có cách xa chúng ta hàng bao nhiêu thế kỷ nhưng vẫn để lại những âm vang lớn trong trái tim triệu triệu người đọc.

---/---

Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 05/02/2021