Hướng dẫn lập dàn ý và Phân tích bài thơ Hầu trời hay nhất. Với dàn ý và các bài văn mẫu được tổng hợp và biên soạn dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn Ngữ Văn. Cùng tham khảo nhé!
Gợi ý:
1. Mở bài
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Giới thiệu tác giả:
+ Tản Đà được mệnh danh là nhà thơ “nằm vắt ngang mình giữa hai thế kỷ”.
+ Là cầu nối văn học giữa nền văn học trung đại và hiện đại, là người đặt nền móng cho Thơ mới.
- Giới thiệu tác phẩm: “Hầu trời” là một trong số những bài thơ thể hiện rất rõ cái “tôi” của Tản Đà.
2. Thân bài
* Khái quát chung:
- Bài thơ được in trong tập “Còn chơi” và được xuất bản vào năm 1921.
- Bài thơ là câu chuyện “hầu trời” của một thi sĩ và có thể tóm tắt bài thơ theo trình tự thời gian:
+ Mở đầu là lúc nhân vật giải thích lý do tại sao mình được lên trời đọc thơ.
+ Khung cảnh khi đọc thơ và thái độ của trời.
+ Kết thúc là cuộc chia tay đầy lưu luyến.
* Phân tích:
- Ngay những câu đầu bài thơ Tản Đà để lại một ấn tượng vô cùng đậm nét với cách dẫn dắt độc đáo của mình:
+ Từ câu chuyện vốn là hư cấu nhưng với việc lặp lại 3 lần chữ “thật”, tác giả đã khẳng định cho độc giả về sự thật này.
+ Câu chuyện bắt đầu từ một đêm khuya vắng, nhà thơ ngồi dậy đun nước rồi ngâm nga những câu thơ “vang cả ngân hà” khiến ông Trời “mất ngủ”.
→ gợi sự tò mò cho người đọc
- Tiếp đó, nhà thơ bắt đầu kể diễn biến của buổi “hầu trời”:
+ Đầu tiên, tuân lệnh của Trời, thi sĩ đã đọc thơ của mình cho Trời và các chư tiên nghe.
+ Đối với niềm hăng say thơ ca của thi sĩ, các chư tiên vô cùng tán thưởng, biểu dương.
+ Tản Đà đã thể hiện rất rõ cái tôi của mình bằng việc mượn lời tán thưởng của Trời.
+ Sau khi nói về tài năng văn chương của mình, Tản Đà hướng ngòi bút của mình kể về cuộc sống cùng cực của tầng lớp văn nghệ sĩ thời ấy cũng như sự hỗn loạn của văn chương bấy giờ.
- Cuối cùng là cuộc chia tay trong xúc động và sự tiếc nuối của nhà thơ khi nhận ra đó chỉ là một giấc mộng.
* Đánh giá chung:
- Dù chỉ là tưởng tượng nhưng lối viết tự nhiên, cách xây dựng câu chuyện có đầy đủ cốt truyện, nhân vật… đã đem đến sự gần gũi, mới lạ cho người đọc.
- Bài thơ đã khép lại nhưng dư âm mà nó để lại thì vẫn còn đó.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của bài thơ: Với tác phẩm này, Tản Đà đã thực sự mang đến một làn gió mới cho thơ ca, xứng đáng với danh hiệu người đặt nền móng cho phong trào Thơ mới.
Tản Đà dấu gạch nối, bản lề khép mở giữa hai giai đoạn văn học Việt Nam. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú trên nhiều thể loại. Tác phẩm của ông thể hiện cái tôi vừa lãng mạn, bay bổng vừa ngông nghênh. Chính những yếu tố đã tạo nên dấu ấn riêng biệt cho thơ văn Tản Đà. Hầu trời có thể coi là một trong những tác phẩm hay nhất, kết tinh giá trị nội dung, nghệ thuật của Tàn Đà.
Cách Tản Đà mở đầu tác phẩm của mình hết sức đặc biệt:
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên sướng lạ lùng.
Câu thơ đầu tiên là nỗi băn khoăn hết sức chân thật, liệu đêm qua có là thực, hay chỉ là hư. Hỏi đấy rồi để câu thơ 2,3,4 ông đã tự trả lời cho chính những băn khoăn ấy: Tản Đà khẳng định giấc mơ đêm qua bằng cách phủ định liên tiếp, từ “thật” được lặp lại bốn lần: thật hồn, thật phách, thật thân thể, thật được lên tiên để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc mà đêm qua chính ông đã được trải nghiệm, đó là nỗi “sướng lạ lùng”. Đây chính là cách Tản Đà dìu dắt người đọc vào thế giới mộng tưởng, vào giấc mơ đêm qua của ông.
Trong đêm trăng thanh gió mát, giữa lúc canh ba yên ắng, tĩnh mịch, Tản Đà nằm buồn uống nước và ngâm văn thì bỗng thấy có hai cô tiên xuống đón ông lên trời. Chuyện dường như hoàn toàn hư cấu, khó lòng có thể tin được nhưng bằng cách giải thích dí dóm, hải hước, Tản Đà đã khiến cho lí do đó trở nên chân thực, đồng thời còn khẳng định được tài năng của bản thân: “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga/ Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà/ Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng/ Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.
Trước sự đón tiếp nồng hậu, nhiệt tình của thiên giới, thi sĩ hăng say thể hiện bản thân:
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Và ông tự lên tiếng khẳng định, tự khen tài năng văn chương của bản thân “văn dài hơi tốt”, “văn đã giàu thay lại lắm lối”. Ông khẳng định tài năng của bản thân không chỉ ở phần nội dung, nghệ thuật mà văn chương còn đồ sộ về số lượng, phong phú về thể loại. Trước tài năng của Tản Đà ai nấy đều cảm thấy vui sướng, hạnh phúc: Trời “lấy làm hay” “bật buồn cười”. Các vị chư tiên “nở dạ” (sung sướng), “lè lưỡi” (thán phục), “chau mày” (suy ngẫm), “lắng tai” (chăm chú), “cùng vỗ tay” (tán dương), ao ước mong mỏi sở hữu những bài thơ bài văn ấy. Và họ tranh nhau dặn:
“Anh ghánh lên đây bán chợ Trời”
Những lời tán dương, ngợi khen của các vị chư tiên lại một lần nữa khẳng định tài năng của Tản Đà:
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết.
Hàng loạt hình ảnh so sánh đẹp đẽ nhất, tinh khiết nhất: sao băng, mây chuyển, tinh như sương, đầm như mưa sa, lạnh như tuyết, đã diễn tả những vẻ đẹp đa dạng, phong phú trong thơ văn Tản Đà. Đồng thời cho thấy niềm sây mê ngưỡng mộ của họ đối với thi nhân. Niềm đam mê văn chương đã xóa nhòa khoảng cách giữa một người trần mắt thịt với những người của nhà Trời. Dường như đến với nghệ thuật, chính cái hay, cái đẹp là sợi chỉ kết nối những tâm hồn nghệ sĩ với nhau, giữa chiếu văn chương không còn người nhà Trời với người trần, không còn người bề trên với kẻ bề tôi, mà chỉ còn quan hệ giữa tác giả và độc giả.
Đoạn thơ đã cho người đọc phần nào thấy được con người của Tản Đà, ông là một người tự tin, kiêu hãnh với tài năng của bản thân, ông ý thức được giá trị của chính mình. Nhưng đồng thời cuộc vượt thoát lên chốn tiên giới này cũng cho thấy sự cô đơn, lạc lõng của ông với cuộc đời. Ông khao khát tìm được tri âm để có thể thấu hiểu tất thảy những tâm tư, tình cảm của mình. Đây đồng thời cũng là khát vọng chung của những người nghệ sĩ đương thời.
Sau khi đem tài năng thể hiện cho mọi người, Tản Đà đồng thời cũng đem những tâm sự rất thực chia sẻ với Trời cùng các chư tiên: “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó/ Trần gian thước đất cũng không có”. Cái ông có chỉ là “một bụng văn” nhưng lại bị o ép nhiều chiều: thuê giấy mực, in, lại thuê cửa hàng, hao công tốn của nhưng văn chương hạ giới lại rẻ mạt, “Kiếm được đồng lãi thực rất khó” “Làm ăn quanh năm chẳng đủ tiêu”. Câu thơ đậm cảm xúc ngậm ngùi, nghi ngại về sứ mệnh của kẻ cầm bút. Để rồi sau đó, Trời đưa ra những lời động viên hết sức chân thành: “Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”. Lời động viên cũng chính là lời tự an ủi chính mình và các văn sĩ cùng thời. Đoạn thơ này lại cho thấy cái “ngông” trong con người Tản Đàm tự tin, kiêu hãnh về giá trị của bản thân đồng thời ông cũng có ý thức trách nhiệm với cuộc đời.
Bằng thể thơ thất ngôn trường thiên, với ngôn ngữ trong sáng, giọng điệu tự nhiên Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện cái tôi của bản thân. Đó là cái tôi: ngông ngạo, phóng túng, tự ý thức sâu sắc về tài năng, giá trị đích thực của mình, khao khát được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời.
Tản Đà (1889 – 1939) là người có lối sống và sự nghiệp văn chương mang dấu ấn "người của hai thế kỉ". Vào những năm 20 của thế kỉ XX, Tản Đà nổi được ví như một ngôi sao sáng trên thi đàn thơ văn Việt Nam,ông có những tác phẩm tiêu biểu như: "Thơ Tản Đà" (1925); "Giấc mộng lớn" (tự truyện – 1928); "Còn chơi" (thơ và văn xuôi – 1921)...hồn thơ Tản Đà thể hiện "cái tôi" lãng mạn, bay bổng vừa phóng khoáng lại vừa cảm thương. Hầu trời là một trong số bài thơ tiêu biểu trong tập "còn chơi" thể hiện rõ nét nhất tâm hồn phóng khoáng, đôi khi là nét ngông, và cũng góp phần khẳng định giá trị bản thân trước cuộc đời của Tản Đà.
Cách vào đề của "Hầu trời" cũng rất độc đáo, gây ấn tượng người đọc với cách vào đề, dẫn dắt độc giả vào thế giới thơ một cách cuốn hút. Bằng những câu thơ, thủ thỉ tâm tình như đang kể cho độc giả một câu chuyện như vừa mới xảy ra vậy, câu chuyện đó bắt đầu từ một giấc mơ, nhưng tác giả lại không thể biết được đó là thật hay mộng, thực hay ảo. Sự đối lập được nêu ra khi bốn từ "thật" được sử dụng trong 2 câu, chứng tả tác giả không hề mơ mộng mà nó thực chất là một giấc mơ, thế tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy. Nhưng dẫu sao thì nó vẫn mang lại cảm xúc thích thú vui sướng cho chính tác giả.
"Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng"
Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên "hầu trời" của mình, với những câu thơ đầy tính thuyết phục, với ngòi bút của mình, Tản Đà vẽ ra một câu chuyện như vừa mới xảy ra đây thôi:
"Nguyên lúc canh ba nằm một mình
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn, ngồi dậy đun ấm nước
Uống xong ấm nước, ngồi ngâm văn.
....
Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy
Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy
Ghế bành như tuyết vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy".
Không gian thời gian của câu chuyện mặc dù là của một giấc mơ nhưng lại rất rõ ràng, tác giả giải thích lí do của buổi "hầu trời" là do "tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà" khiến Trời mất ngủ. Trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho Trời nghe. Lí do của buổi "hầu trời" mà tác giả đưa ra như một khẳng định rằng: Cái may mắn được lên hầu trời do những phút cao hứng trong thơ văn của nhà thơ.
Câu chuyện của buổi "hầu trời" diễn ra rất tự nhiên và hợp lí, như chính tác giả vừa mới trở về từ chốn đó vậy: "Theo lệnh của Trời", thi sĩ đọc văn và ngâm văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.
"Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe
Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc".
Với niềm phấn khích và đầy hứng khởi của mình, sự say sưa trong giọng đọc thơ, cũng ẩn ý cho niềm say mê trong văn chương đã khiến cho tác giả rất tự tin, thể hiện niềm khát khao và đam mê của chính bản thân mình. Và qua những câu thơ, người ta cũng thấy được tài năng của ông khi biết được nhiều thể loại:
"Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi".
Mọi người sau khi được Tản Đà đọc thơ, lấy làm rất thích thú, ai cũng bộc lộ sự hân hoan tán thưởng, kể cả ông trời cũng phải buông ra những lời tán dương mà mới nghe cũng thấy sung sướng hạnh phúc.
Thái độ của người nghe được thể hiện ở nét mặt, cử chỉ, điệu bộ: "Tâm như nở dạ"; "Cơ lè lưỡi"; "Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày"; "Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng" và khi hết mỗi bài thì tất cả cùng đồng loạt vỗ tay. Thi sĩ còn kể ra hàng loạt các tập thơ của mình như: "Khối tình", "Đài gương", "Lên sáu"...Nhận được sự ngưỡng mộ, thi sĩ được các chư tiên dặn:
"Anh gánh lên đây bán chợ trời".
Đoạn thơ tiếp theo thể hiện rõ ý thức về "cái tôi" cá nhân của tác giả rất cao:
"Trời lại phê cho: văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!"
Những câu thơ góp phần thể hiện "Cái tôi" phóng khoáng, tác giả đã cố ý mượn lời của Trời để ca ngợi thơ văn của mình. Nó không những chứng tỏ Tản Đà rất có ý thức về tài năng văn chương vượt trội của bản thân mà còn như khẳng định chính Tản Đà là người khơi nguồn cho một cuộc cách mạng về thơ ca, đúng với cái tên "người của hai thế kỉ" mà Hoài Thanh đã gọi. Cái hay, cái đẹp trong thơ ca của Tản Đà được tác giả đem so sánh với vẻ đẹp tuyệt vời của các hiện tượng, sự vật trong vũ trụ như: sao băng, mây, gió, sương, tuyết..., qua đây cũng thấy được thái độ của tác giả tỏ ra rất tự hào, kiêu hãnh về tài năng văn chương của mình. Theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:
" – Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt"
Trời ngờ ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên tào kiểm tra lại. Thiên tào tra sổ rồi bẩm báo:
" – Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông".
"- Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
...
Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo"
Khi được trời hỏi, sau một hồi đối đáp thì cũng lộ ra một điều rằng, vốn dĩ Tản Đà ở hạ giưới chỉ vì tội ngông. Đoạn thơ tái hiện bức tranh hiện thực được vẽ bằng bút pháp tả chân thực, tỉ mỉ và rất cụ thể, phản ánh đời sống cùng cực của tầng lớp văn nghệ sĩ một cách chính xác và tình hình lộn xộn của thị trường văn chương thời ấy. Cảm xúc ở đoạn thơ khi thi sĩ đọc thơ cho Trời nghe hứng khởi bao nhiêu thì đoạn này lại càng thể hiện tâm trạng ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu. Giấc mơ "hầu trời" như sự biểu hiện khát khao được thể hiện tài năng của thi sĩ. Dường như Trời cũng thấu hiểu được tình cảnh của thi sĩ nên khuyên nhủ:
"Rằng: Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết"
Những lời khuyên của trời dù ngắn ngủi nhưng lại vô cùng có giá trị, cuộc chia tay tiễn biệt giữa trời các chư tiên và tác giả cứ quyến luyến.
"Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai"
Mặc dù đã tỉnh khỏi giấc mộng nhưng vẫn lấy làm hối tiếc khi một năm có bao nhiêu ngày nhưng may mắn chỉ có 1 đêm để hầu trời. Điều này càng chứng tỏ, lòng khát khao muốn dùng thơ văn và niềm đam mê của mình để ai ai cũng biết tới, và những ai trân trọng nó.
"Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đêm lên hầu Trời".
Từ một câu chuyện dường như không có thật, "hầu trời" đã phản ánh khá rõ tính cách của Tản Đà, ông đã mạnh dạn tự biểu hiện "cái tôi" cá nhân, một "cái tôi" ngông, phóng túng. Qua đó tác giả cũng ý thức rất rõ về tài năng, dám công khai cái tài văn chương hơn người của mình. Bài thơ "Hầu trời" là một bài thơ hay và độc đáo, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà, một trong những tác phẩm tiêu biểu cho cả hồn thơ Tản Đà và cả phong trào thơ mới.
Nói đến Tản Đà, trước hết người ta nói đến sự nghiệp thi ca của ông. Nói đến thi ca Tản Đà, người ta hay nhắc đến các bài Thề non nước, Tống biệt, Thăm mả cũ bên đường, Cảm thu, Tiễn thu,… Bài thơ Hầu Trời tuy được nói đến ít hơn, và có thể chưa toàn bích, nhưng vẫn là một tác phẩm thật sự xuất sắc. Thậm chí nó có phần tiêu biểu hơn các bài thơ trên nếu xét theo tiêu chí: một tác phẩm lưu lại nhiều "chứng tích giao thời" của thơ ca Việt Nam, lại tạo được sự kích thích cho lớp nhà thơ đến sau muốn thực hiện những cách tân nghệ thuật.
Lên thiên giới, xuống âm cung, sống với tiên, triều kiến Ngọc hoàng Thượng đế, trần tình trước Diêm Vương,… là đề tài thường thấy trong nhiều sáng tác dân gian và văn học viết thời trung đại: Cóc kiện Trời, Từ Thức gặp tiên, Bắc thang lên tận cổng trời, Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào, Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên (hai truyện sau nằm trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ),… Có bao nhiêu chuyện li kì có thể kể về những chuyến du hành như thế, về cuộc gặp những "con người" như thế. Và hàng loạt vấn đề của tồn tại, của kiếp sống nhân gian cũng theo đó mà được người ta nhận thức một cách sâu sắc. Sang đầu thế kỉ XX, nhà nho tài tử cuối mùa là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu như vẫn còn lưu luyến mộng xưa, từng ao ước được chị Hằng "nhắc lên chơi" nơi cung Quảng (bài Muốn làm thằng Cuội), để rồi một lần được "Trời sai gọi" thì thích thú mãi, nên hào hứng viết ra bài thơ Hầu Trời để chia sẻ cùng độc giả. Có lẽ, khi hạ bút viết hai chữ Hầu Trời làm nhan đề, nhà thơ đang ở trong trạng thái hết sức hưng phấn. Giữa một thời mà Trời, Phật, Thần tiên đã hơi bị mất thiêng do sự phát triển của khoa học và tinh thần duy lí, xem chừng sự trở lại với đề tài "hầu Trời" dễ đẩy nhà thơ và bài thơ vào tình thế lạc lõng. Nhân vật trữ tình được gặp Trời nhờ cơ duyên nào? Trời, theo sự miêu tả của nhà thơ, có đáp ứng được cách hình dung của tầng lớp độc giả mới ở thành thị khi đó? Và câu hỏi hệ trọng hơn: Với bài thơ này, Tản Đà đã làm được điều gì khác lạ, cho thơ?
Bài thơ dài, có đến 114 câu, có thể được chia thành mấy đoạn nhỏ:
20 câu đầu: kể lí do cùng thời điểm nhân vật trữ tình được "gọi lên" hầu Trời.
Từ câu 21 đến câu 68: kể về cuộc đọc thơ đầy "đắc ý" cho Trời và chư tiên nghe giữa chốn "thiên môn đế khuyết".
Từ câu 69 đến câu 98: kể nội dung lời trần tình với Trời về tình cảnh khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn và thực hành "thiên lương" ở hạ giới.
Đoạn còn lại: kể về phút chia tay đầy xúc động giữa nhân vật trữ tình với Trời và chư tiên.
Như vậy, mạch thơ cũng chính là mạch thuật kể một câu chuyện theo trình tự thời gian trước sau, rất dễ theo dõi. Đây là một trong nhiều nẻo lối mà Tản Đà mở sẳn để chất văn xuôi "xâm lăng" vào địa hạt thơ. Sự phong phú của các chi tiết trong bài xem ra không thua gì một tác phẩm tự sự bằng văn xuôi cùng đề tài (như Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào chẳng hạn). Theo mạch chuyện, âm điệu bài thơ cũng có sự chuyển biến linh hoạt: ở hai đoạn đầu, âm điệu chính là vui, hào hứng, phấn chấn; ở đoạn ba, âm điệu dằn dổi, kêu ca nổi lên (có xen chút an ủi, vỗ về khi thuật lại lời của Trời); cuối cùng, âm điệu chuyển sang ngậm ngùi, xao xác.
Tinh huống chuyện bắt đầu từ tiếng ngâm thơ "vang cả sông Ngân Hà" khiến Trời "mất ngủ". Rõ ràng, cái duyên được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cao hứng của nhà thơ. Chuyện bịa mười mươi mà xem chừng rất "thật", rất tự nhiên! Xét theo một góc nhìn nào đó, chuyến "hầu Trời" của Tản Đà được xuất phát từ những lí do khá là "vớ vẩn". Xưa, người ta đã lên trời hoặc được Trời triệu lên vì những điều có vẻ nghiêm trang, nghiêm trọng hơn nhiều: nào khiếu kiện, nào thỉnh cầu, nào để tiếp nhận bài học về cách khu xử thuận với "thiên lí",… Nhưng biết làm sao, đối với Tản Đà, còn có chuyện gì quan trọng hơn là chuyện thơ văn. Bởi thế, trong tâm thức của ông, lí do được lên hầu Trời như thế chẳng hề kém phần nghiêm túc. Đúng là mới đọc đến phần đầu của bài thơ, chúng ta đã thấy tác phẩm chứa đựng một nội dung cảm hứng khác với thơ văn truyền thống.
Bài thơ có rất nhiêu chi tiết cụ thể được xếp đặt lô gích, thể hiện rõ tài hư cấu, sức tướng tượng dồi dào của tác giả: nằm một mình -> buồn —> đun nước uống —> ngâm văn ; tiên xuống —> nêu lí do -> đưa lên trời ; được đón tiếp trọng vọng, được mời đọc thơ -> chư tiên xúm vào khen ngợi, tán thưởng -> Trời truyền hỏi danh tính —> kể lể tình cảnh, bày giãi nỗi lòng —> Trời "đả thông" tư tưởng —> lạy tạ ra về,… Dường như tác giả muốn người đọc xác nhận đây là một câu chuyện thật (một thoả thuận cần thiết để tiếp tục "trò chơi" mà cả hai bên cùng tham gia). Có lẽ, phải đến thời của Tản Đà, các thi sĩ mới có được sự cẩn thận, chu tất như thế với độc giả – kẻ sẽ tiêu thụ sản phẩm và góp phần quyết định phương thức sống bằng ngòi bút của họ.
Nhà thơ rất khéo tả bối cảnh, từ bối cảnh thanh đạm của phòng văn nơi hạ giới tới bối cảnh rực rỡ, oai nghiêm của chốn thiên đình. Nhờ vậy, không gian của câu chuyện trở nên có nhiều tầng lớp, phương vị, tương khớp với trường hoạt động của các nhân vật. Các đoạn đối thoại và miêu tả những phản ứng tâm lí đa dạng của từng loại nhân vật được cài vào nhau thật linh hoạt, khiến người đọc có cảm tưởng mình đang thực sự tham gia vào câu chuyện, cùng nếm trải những phút "sướng lạ lùng", "đắc ý", cao hứng tột bậc của nhân vật trữ tình. Hãy đọc lại một đoạn thơ rất vui:
Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong một bài cùng vỗ tay.
Đem đến cho độc giả những phút vui vô tư như thế có lẽ không phải là điều từng được các nhà thơ trung đại quan tâm. Nhìn chung, việc "bịa đặt" nên cả một câu chuyện kéo dài rình rang như trong bài thơ Hầu Trời mang nhiều ý nghĩa cách tân. Điều quan trọng nhất là nó đã đưa thơ trữ tình thoát dần nhiệm vụ tỏ chí nghiêm trang, khắc khổ để tiện giãi bày cảm xúc phóng khoáng của con người cá nhân và xây dựng một quan hệ giao tiếp mới đối với độc giả thành thị khi đó.
Lên tới được Thiên đình xưa nay chưa từng là chuyên dễ dàng. Nếu lên chỉ để đọc thơ cho thoả thích, kể sướng thì sướng thật đấy, nhưng quả có hơi… phí. Nhà thơ Tản Đà rất hiểu điều này nên đã tranh thủ chuyến "hầu Trời" để "quảng cáo" tài năng của bản thân, để thổ lộ suy nghĩ về nghề văn trong những thập niên đầu của thế kỉ XX và về "sứ mệnh" xã hội mà ông tự đứng ra gánh vác (thật ra thì chỉ riêng việc đọc thơ cũng đã mang tính chất quảng cáo rồi).
Có thật nhiều câu thơ mà ở đó tác giả "công khai" nói về cái tài của mình:
Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời lại phê cho: "Văn thật tuyệt”!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!…"
Các nhà nho tài tử trước Tản Đà tất thảy đều thị tài (cậy tài, khoe tài), nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng, gắn liền với khả năng "kinh bang tế thế". Trước Tản Đà, không có nhiều người dám nói trắng ra cái "hay", cái "tuyệt" của văn thơ mình như vậy, trong thơ, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời (một ông Trời cũng khá bình dân!). Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao và Tản Đà không hề vô lối khi tự khen mình (để cho Trời khen thì cũng là một hình thức tự khen – có ai kiểm chứng được lời của Trời nói đâu!). Nhà thơ đã thấy được "dài", "giàu", "lắm lối" là "phẩm hạnh" đặc thù của vãn thời mình, bên cạnh những "phẩm hạnh" mang tính chất truyền thống như "nhời văn chuốt đẹp", "khí văn hùng mạnh", "êm", "tinh",… Tình huống "hầu Trời" quả đã cho nhà thơ một cơ hội tuyệt vời để phô bày một cách sảng khoái tài năng thiên phú. Thật dễ thông cảm khi mọi nhân vật đều đang ở trong tình trạng cao hứng, từ nhà thơ đến chư tiên và trên hết là… Trời! Cũng cần nói thêm, nhà thơ chỉ cao hứng như thế khi gặp được người hiểu và thông cảm (là Trời) mà thôi. Ở hạ giới dễ đâu tìm được người tri âm như vậy! Lời Trời khen hẳn là sự thẩm định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là lối tự khẳng định rất "ngông" của kẻ vốn đã "ngông" khi nhận mình là "trích tiên"!
Trong bài thơ, Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về nghề văn. Tuy vậy, ẩn sau các câu chữ, ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Trong mắt Tản Đà, văn chương thời đó là một nghề kiếm sống mới, có người bán, kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều. Điều đáng lưu ý khác là dường như Tản Đà đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải "trường vốn" để theo đuổi nó dài dài ("Nhờ Trời văn con còn bán được – Chửa biết con in ra mấy mươi"; "Vốn liếng còn một bụng văn đó"). Sau cùng, phải thấy Tản Đà đã chớm nhận ra rằng đa dạng về loại, thể là một đòi hỏi thiết yếu của hoạt động sáng tác, và với những sáng tác mới, tiêu chí đánh giá dĩ nhiên là phải khác xưa…
Trong hẳn một khổ thơ (từ câu 65 đến câu 68), tác giả đã "tâu trình" rõ ràng về họ tên, "xuất xứ" của mình cho Trời nghe. Việc xưng danh của Tản Đà đã diễn ra khá tự nhiên, phù hợp hoàn toàn với mạch chuyện và đây không phải là hiện tượng chưa từng có trong văn học trung đại hay trong các sinh hoạt văn nghệ dân gian (như hát chèo chẳng hạn). Ta đã từng quen các kiểu xưng danh của Hồ Xuân Hương ("Này của Xuân Hương mới quệt rồi" – Mời trầu), của Nguyễn Du ("Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như" – Độc Tiểu Thanh kỉ), của Nguyễn Công Trứ "ông Hi Văn tài hộ đã vào lồng" – Bài ca ngất ngưởng), giờ được biết thêm một kiểu xưng danh mang đậm dấu ấn Tản Đà. Khác người xưa, Tản Đà đã tách tên, họ theo một kiểu cung khai lí lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, quốc tịch, châu lục, tên của hành tinh,… Có một nụ cười hóm hỉnh ẩn đằng sau vẻ thật thà, thành khẩn trước đấng chí tôn, nhưng điều đáng nói hơn hết vẫn là ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của nhà thơ. Một cái tên – tên thật chứ không phải tự hay hiệu – mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Hơn nữa, ông còn muốn Trời thấy được Nguyễn Khắc Hiếu chính là con người của Á châu, của xứ sở có một nền "văn minh tinh thần" cao quý, đáng tự hào ("Văn minh Đông Á trời thu sạch"). Cụ thể thêm một mức nữa, ông kiêu hãnh khai mình là đứa con đích thực của "Sông Đà núi Tản nước Nam Việt". Khi trong thời hiện đại, hai chữ "thiên hạ" đã trở thành một khái niệm mở (điều này Tản Đà ý thức được rất rõ), đặc biệt là khi đất nước đã mất chủ quyền, kiểu nói như vậy của nhà thơ rõ ràng chứa đựng một thái độ tự tôn dân tộc, một "tình cảm non nước" đáng quý. Cũng qua câu thơ, tác giả đã ngầm cho biết lai lịch của bút hiệu Tản Đà – một điều đã từng được ông thể hiện trong nhiều bài thơ khác.
Nói sâu về bút pháp Tản Đà, rất cần chú ý tới tính chất bình dân trong lối tự sự cũng như giọng khôi hài thấm đượm trong cách dùng từ, trong kiểu đặc tả những biểu hiện cảm xúc của nhân vật, trong lối pha trộn các "chất liệu thơ "vốn không cùng "đẳng cấp" (theo ý thức văn học của thời trung đại),… Lối kể chuyện đầy tính chất bình dân và giọng khôi hài trong bài thơ hoàn toàn thống nhất với nhau, hỗ trợ cho nhau. Chúng lộ rõ trước hết ở thái độ hào hứng của người kể trước một đối tượng nghe chuyện (giả định) đồng đẳng, rất mực thân tình. Ngay trong chuyện kể, quan hệ giữa nhân vật trữ tình và chư tiên xem ra cũng suồng sã, thân mật (chư tiên gọi nhân vật trữ tình là anh). Từ dùng ở đây nôm na, bình dị, như được tiện tay lấy từ đời sống thường nhật, lại được đặt trong ngữ điệu nói nên càng có ý vị: "Văn dài hơi tốt ran cung mây"; "Văn đã giàu thay, lại lắm lối – Trời nghe Trời cũng bật buồn cười"; "Chư tiên ao ước tranh nhau dặn",… Đặc biệt, dưới ngòi bút của tác giả, Trời và chư tiên không có một chút gì đạo mạo. Họ biểu hiện cảm xúc theo một cung cách rất đỏi… bình dân: lè lưỡi, chau mày, lắng tai đứng, vỗ tay, bật buồn cười, tranh nhau dặn,… Cứ tưởng tượng hình ảnh các đấng siêu nhiên vốn không thuộc cõi người mà có những cử chỉ, điệu bộ ngộ nehĩnh như thế, độc giả không thể không cảm thấy buồn cười, không thể khồng phục cách kể chuyện "xôm trò" của tác giả. Giả sử bị tước đi lối kể "bình dân" và nụ cười hóm hĩnh, cả bài thơ sẽ mất di một ý vị thẩm mĩ đặc trưng, bởi sự hấp dẫn của tác phẩm văn học nói chung không hẳn nằm ở chuyện mà ở cách kể, giọng kể. Hơn thế, trong bài thơ này, lối kể ấy, nụ cười ấy làm nên nội dung trữ tình chính, giúp ta hiểu về con người tác giả hơn bất cứ cái gì khác. Nói tóm lại, những yếu tố vừa nêu là một phần tất yếu của bài thơ, hoàn toàn xứng hợp với câu chuyện "hầu Trời" mà tác giả đã hư cấu. Như vậy, để cảm nhận đúng cái "thần" của bài thơ, điều quan trọng trước hết chưa phải là "nhấm nháp" từ tốn từng câu thơ một, tróc tìm "ý nghĩa" trong mỗi lời nói của nhân vật trữ tình, mà là việc xác định một tâm thế sẵn sàng tham dự vào "cuộc chơi" do tác giả đề nghị, chia sẻ tiếng cười của tác giả trên một tinh thần dân chủ.
Đúng là so với yêu cầu hàm súc của thơ xưa, Hầu Trời có vẻ quá dài. Nhưng đây là một đặc điểm chứ chưa hẳn là một nhược điểm, và như vậy, cần đánh giá nó theo tiêu chí riêng. Dài là một đòi hỏi tự nhiên đối với bài thơ giàu yếu tố tự sự như Hầu Trời. Hơn thế, nguyên tắc tôn trọng dòng chảy tự nhiên, sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ thời đại (mà Tản Đà là người có công đầu xác lập) cho phép nhà thơ thoát ra khỏi những ràng buộc quá khắt khe về hình thức để thoải mái chứng minh sự hiện diện của cái tôi trong nghệ thuật. Điều đáng nói khác là quan hệ giao tiếp mới, dân chủ hơn giữa độc giả và nhà thơ (sản phẩm của thời đại) không bắt buộc tác giả phải quá tiết chế trong cảm xúc, trong việc triển khai ý thơ, tứ thơ,… Ngoài ra, không loại trừ khả năng bài thơ được kéo dài nhằm đáp ứng nhu cầu của báo chí phải lấp khoảng trống trong một chuyên mục nào đó, thêm nữa, nhằm giúp nhà thơ tính dòng… lấy nhuận bút.
Bên cạnh độ dài khá khác thường, Hầu Trời còn đáng chú ý với hiện tượng chia khổ (các khổ có độ dài khác nhau), với sự xuất hiện của những từ nôm na, thông tục, với ngữ điệu nói,…
Đọc thơ Tản Đà, nghe các giai thoại về ông, ai cũng thấy ông quả là một tay "ngông". Từ "ngông" trong nghiên cứu văn học thường được dùng để chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường của những nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ. Tất nhiên, ý thức cá nhân ấy cũng chí được phát triển mạnh mẽ trong những điều kiện xã hội nhất định, gắn liền với tổng thể những quan niệm khá mới mẻ (trong khuôn khổ thời trung đại) về vũ trụ, nhân sinh và nghệ thuật. Tản Đà không phải là một trường hợp "ngông" cá biệt trong văn học Việt Nam. Trước ông, những người như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,… đều "ngông". Tuy nhiên, cái "ngông" của Tản Đà vẫn có những điểm đặc thù do quy định của thời đại. Trong bài Hầu Trời, cái "ngông" của Tản Đà có những biểu hiện nổi bật: Tự cho văn mình hay đến mức Trời cũng phải tán thưởng. Không thấy có ai đáng là kẻ tri âm với minh ngoài Trời và chư tiên. Xem mình là một "trích tiên" bị "đày xuống hạ giới vì tội ngông". Nhận mình là người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả (thực hành "thiên lương").
Ngoài ra, nguyên việc nhà thơ bịa ra chuyện "hầu Trời", nói "ngon lành" như thể đó là chuyện thật đã hàm chứa một sự khiêu khích nhất định đối với cái nhìn tôn ti, đẳng cấp đang thống trị xã hội lúc ấy. Đó là chưa kể việc Tản Đà "dám" hình dung các đấng siêu nhiên như những đối tượng rất đỗi bình dân, thậm chí ngang hàng với mình,…
Cái "ngông" của Tản Đà có nhiều điểm gặp lại cái "ngông" của Nguyễn Công Trứ (thể hiện qua Bài ca ngất ngưởng): ý thức rất cao về tài năng của bản thân; dám nói giọng bông lơn về những đối tượng như Trời, Tiên, Bụt; dám phô bày toàn bộ con người "vượt ngoài khuôn khổ" của minh trước thiên hạ, như muốn "giỡn mặt" thiên hạ,… Nói về điểm khác giữa hai người, có thể thấy: "ngông" ớ Tản Đà là cái "ngông" của kẻ tuy không phải sống vô trách nhiệm với xã hội nhưng không còn xem vấn đề "Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung" là chuyện hệ trọng nữa. Hơn nữa, cái tài mà Tản Đà muốn khoe về cơ bản là cái tài thuộc phạm trù văn chương. Rõ ràng ở đây nhà thơ đã rũ bỏ được khá nhiều gánh nặng trách nhiệm (mà thông thường các nhà nho vẫn đặt trên vai mình) để sống tung tẩy hơn với cái tự do cá nhân mới mẻ mà thời đại đưa tới.
Hầu Trời quả là bài thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới về mật thi pháp, rất tiêu biểu cho tính chất "giao thời" trong nghệ thuật thơ Tản Đà. Qua bài thơ, có thể nhận ra được nhiều điều về xu hướng phát triển của thơ Việt Nam trong những nãm hai mươi của thế kỉ XX. Theo quan niệm văn học và cách phân chia văn loại của nhà thơ, Hầu Trời thuộc loại văn chơi, nghĩa là thơ ca – loại văn không trực tiếp bàn về các vấn đề xã hội (phân biệt với văn thuyết lí có hình thức văn xuôi). Trên thực tế, các vấn đề xã hội vẫn cứ hiện diện trong bài. Chỉ có điều, chúng hiện diện theo một kiểu khác, dưới một hình thức khác, so với trước.
---/---
Thông qua dàn ý và một số bài văn mẫu Phân tích bài thơ Hầu trời tiêu biểu được Top lời giải tuyển chọn từ những bài viết xuất sắc của các bạn học sinh. Mong rằng các em sẽ có khoảng thời gian vui vẻ và hữu ích khi học môn Văn!