logo

Phân tích 4 khổ thơ đầu bài Sóng

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích 4 khổ thơ đầu bài Sóng. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!


Phân tích 4 khổ thơ đầu bài Sóng học sinh giỏi

Nếu như Xuân Diệu là ông hoàng thơ tình, thì Xuân Quỳnh cũng xứng đáng có được vị trí nữ hoàng của tình yêu. Nữ thi sĩ lấy cảm hứng từ nhiều khía cạnh cuộc sống, tuy nhiên để lại ấn tượng lớn nhất trong lòng người đọc có lẽ phải kể đến các bài thơ viết về tình yêu. Trong đó “Sóng” là một trong những tác phẩm khắc họa rõ rất tiếng thơ thổn thức chan chứa yêu thương của Xuân Quỳnh. Đặc biệt bống khổ đầu bài thơ như một lời tự tình đầy tha thiết. Mong muốn được đắm chìm sâu hơn trong “bể lớn” tình yêu và lý giải, cắt nghĩa tình yêu.

Xuyên suốt cả bài thơ và bốn khổ đầu, “sóng” và “em” cứ da diết, song hành và trở đi trở lại nhiều lần. “Em” tượng trưng cho cái tôi của người phụ nữ, “sóng” là hình ảnh soi chiếu rõ nét hơn cho “em”. Đôi khi ranh giới giữa hai hình tượng này bị xóa nhòa, hòa nhập làm một để thể hiện tình yêu say đắm, mãnh liệt như những cơn sóng biển của nữ thi sĩ.

Ấn tượng ngay từ câu thơ đầu là những đối cực mạnh mẽ:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ”

Liên tiếp những tính từ có sức gợi và lột tả mạnh mẽ: “dữ dội”, “dịu êm”, “ồn ào” và “lặng lẽ”. Cơn sóng ngoài biển khơi thất thường đến thế, đa sắc thái đến thế. Lúc thì mãnh liệt như thét gào, khi thì lặng im như ru với những đợt sóng khe khẽ vỗ bờ. Chẳng khác nào người phụ nữ khi yêu, tâm trạng có những biến chuyển vô cùng tinh vi. Khi say đắm và nồng nhiệt, hết mình trong tình yêu, lúc lại hờ hững xa xôi. Tất cả cũng chỉ để che giấu một tâm hồn, trái tim yếu đuối mong manh, nhạy cảm và cũng rất dễ bị tổn thương. Tình yêu là vậy. Như những nốt nhạc trong một bản đàn, có nốt trầm nốt bổng, cung bậc cảm xúc khi yêu cũng vô cùng đa sắc. Đó mới chính là tình cảm chân thành nhất của một trái tim yêu.

Hãy chú ý tới cái cách đặt vị trí từ của thi sĩ. Hai câu thơ kết lại đều bằng những tính từ chỉ sắc thái nhẹ nhàng là “dịu êm” và “lặng lẽ”. Có chăng sau tất cả những thăng trầm, những thất thường, “sớm nắng chiều mưa” khi yêu. Đích đến cuối cùng mà người phụ nữ khi yêu muốn kiếm tìm vẫn là sự an yên, hạnh phúc. Đôi dòng thơ mở đầu thể hiện trái tim Xuân Quỳnh đẹp đẽ mà mong manh. Yêu mãnh liệt nhưng cũng đầy dự cảm, mong muốn tìm được một tình yêu đích thực.

Sang đến hai câu sau, người phụ nữ thể hiện một thái độ chủ động. Muốn vươn mình ra bể lớn để hiểu hơn về tình yêu:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Đọc câu thơ, ta nhận thấy ngay sự tương phản giữa hai không gian. Một bên là “sông” chật hẹp và tù túng, một bên là “bể” rộng lớn mênh mông, bao la sâu thẳm. Những con sóng không chịu thu mình trong lòng sông chật hẹp nhỏ bé để rồi vươn mình tới bến bờ rộng lớn hơn, khám phá những điều vĩ đại hơn. Bể lớn mênh mang mới chính là nơi mà con sóng thuộc về, là nơi để sóng thỏa sức vẫy vùng và khao khát, được sống với đam mê. Người phụ nữ trong tình yêu cũng vậy thôi. Luôn khao khát tìm thấy một nửa của cuộc đời mình, tìm kiếm sự đồng cảm tri âm. Như vậy có thể thấy nhân vật trữ tình tuy mong manh nhưng không hề “dễ vỡ”. Ngược lại lại có sự chủ động, táo bạo và quyết liệt trong tình yêu.

Đoạn thơ sau càng khắc họa rõ nét hơn những rạo rực, khát khao trong trái tim người phụ nữ trẻ:

“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày nay vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

“Ngày xưa” – “ngày nay”, hai trạng từ chỉ thời gian hoàn toàn đối lập như muốn mở ra khoảng thời gian trải dài từ hàng triệu năm trước tới nay và mãi mãi về sau. Những con sóng dào dạt trên biển cũng như con sóng tình yêu trong trái tim nữ thi sĩ. Nhịp đập con tim cũng như sóng, lúc nào cũng bồi hồi, cồn cào và mãnh liệt. Đó cũng chính là sự vô cùng, vô tận và vĩnh hằng của tình yêu.

Không gian biển lớn hiện lên như một lồng ngực lớn, còn sóng tựa như hơi thở cồn cào của ngực biển. Chừng nào biển còn dào dạt sóng, con tim còn thổn thức đập thì tình yêu sẽ luôn còn mãi, bất diệt với thời gian. Câu thơ kết thúc bằng từ “trẻ” làm toát lên những gì là tươi tắn, thanh xuân, đẹp đẽ nhất của tình yêu. Phải chăng chính tình yêu đã đem đến sức sống cho cuộc đời và tuổi trẻ?

Từ đam mê cháy bỏng trong tình yêu, nữ thi sĩ cảm thấy băn khoăn, muốn hiểu sâu hơn về cái huyền bí của tình yêu:

“Trước muôn trùng sóng biển

Em nghĩ về anh em

Em nghĩ về biển lớn

Từ khi nào sóng lên?”

Lối viết điệp cấu trúc “em nghĩ về” khiến câu thơ nghe sao mà da diết, khắc khoải và đau đáu đến thế. Đã bao lần “em” suy nghĩ, trăn trở băn khoăn. Mong muốn tìm được lời giải đáp cho những âu lo trăn trở trong lòng. Hình tượng em đã không còn ẩn mình trong sóng nữa mà hiện lên giữa trời biển mênh mông. Không gian đất trời cao rộng bao la khiến nhà thơ liên tưởng đến cái vô cùng, vô tận của tình yêu. Đại dương không chỉ rộng lớn mà còn đầy bí ẩn và đầy giông tố. Cũng như trong cuộc đời tình yêu không thể nào đoán định. Đẹp đẽ đấy nhưng có thể vỡ vụn bất cứ lúc nào. “Từ khi nào sóng lên?” là sự băn khoăn khao khát tìm hiểu cội nguồn của sóng, cội nguồn của tình yêu.

Ở câu thơ tiếp theo, thi sĩ cố gắng cắt nghĩa:

“Sóng bắt đầu từ gió”

Câu trả lời có chút chơi vơi, đã tìm được lời giải đáp nhưng những băn khoăn trăn trở trong lòng nhà thơ vẫn chưa được gỡ bỏ. Để rồi nữ thi sĩ lại tiếp tục đặt ra câu hỏi:

“Gió bắt đầu từ đâu”

Cội nguồn của sóng là gió. Nhưng gió bắt nguồn từ đâu? Cõi lòng nhà thơ càng thêm rối bời với những câu hỏi chồng chất để rồi buông lời thơ đầy nghẹn ngào và bâng khuâng:

“Em cũng không biết nữa”

Em băn khoăn, bối rối và bất lực khi tìm kiếm cội nguồn của sóng. Lời thơ hiện lên hình ảnh một cô gái với cử chỉ lắc đầu đầy ngượng ngùng và sự bất lực “đáng yêu”. Cái lắc đầu đầy nũng nịu bối rối khi không thể lý giải được:

“Khi nào ta yêu nhau”

Mong muốn lý giải tình yêu của nữ thi sĩ không phải là duy nhất. Xuân Diệu cũng đã từng thở than “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”. Thật vậy, khó có thể lý giải cội nguồn, điểm xuất phát của tình yêu. Cũng như không tìm được điểm khởi nguồn có gió. Chính sự huyền bí là nhân tố khiến cho tình yêu càng trở nên hấp dẫn hơn. Mặc dù không thể hiểu được nhưng con người vẫn bất chấp để được say đắm, hòa mình cùng tình yêu.

Bốn khổ thơ đầu bài “Sóng” là sự tuôn trào của mạch cảm xúc. Thể hiện một hồn thơ Xuân Quỳnh luôn rạo rực và khao khát được yêu thương, sống với tình yêu một cách mãnh liệt nhất. Đây cũng là nét đẹp chung của những người phụ nữ Á Đông.


Phân tích 4 khổ thơ đầu bài Sóng (5 mẫu)


Bài mẫu 1

   Tình yêu vốn là một đề tài quen thuộc của văn chương, người ta tìm đến thơ cũng là một cách để bộc lộ tâm hồn mình, nỗi lòng mình, và đương nhiên, trong đó sẽ có những cảm xúc, suy nghĩ, nỗi niềm về tình yêu được tỏ bày. Xuân Quỳnh cũng như nhiều người phụ nữ khác, trái tim tha thiết yêu thương luôn rực cháy trong tim. Một tâm hồn vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm. Chưa bao giờ trong phong trào kháng chiến chống Mĩ, ta lại gặp một  tâm hồn da diết yêu đương như Xuân Quỳnh, trong khung cảnh chiến đấu ác liệt, một chút tình yêu của bà như một cơn gió lạ, tươi tắt và thuần khiết, và đó cũng là hoàn cảnh  thơ Sóng được ra đời. Đọc Sóng ta không chỉ đọc được tâm hồn đẹp đẽ của một cô gái, mà còn hiểu hơn về Xuân Quỳnh, hiểu hơn về tình yêu của bà, và có cái nhìn sâu sắc hơn về tình yêu.

    Sóng rất hay, những gì Xuân Quỳnh viết ra đều chân thành và gần gũi, với những cô gái đã từng yêu, sẽ cảm nhận được phần nào sự đồng điệu trong trái tim mình. Còn những cô gái chưa từng yêu, sẽ cảm thấy tình yêu thật đẹp, và hiểu hơn về tình yêu.

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

    Sóng ngoài khơi là vậy, luôn mang trong mình hai đối cực, vừa dữ dội dịu êm, vừa ồn ào, lặng lẽ. Hai trạng thái này tưởng như đối lập, nhưng lại là một sự song hành tương hỗ không thể thiếu mang đặc trưng của sóng. Bắt nguồn từ cảm hứng này, Xuân Quỳnh đã liên tưởng thật chính xác với tâm trạng của người con gái khi yêu. Khi yêu ai cũng vậy, có những lúc tâm trạng lo lắng, bất an, có những lúc lại dịu dàng, nhẹ nhõm, đó dường như là một bản chất cố hữu của người phụ nữ. Nhưng, dù là người phụ nữ giỏi nhẫn nhịn, chịu đựng và bao dung như nào, cũng không thể nuôi dưỡng trái tim mình, tình yêu mình trong một mối quan hệ với đối phương quá nhỏ bé, không đủ bao dung, yêu thương cho tình cảm của mình.

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

    Sông là không gian nhỏ hẹp, bể là không gian rộng lớn. Sóng tìm từ sông ra bể, cũng như hành trình của người phụ nữ đi tìm tình yêu đích thực cho đời mình. Khát khao một tình yêu mãnh liệt, hoàn thiện và phù hợp hơn với mình.

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ

    Tình yêu là gì mà con người ta luôn hướng tới? Tuổi trẻ sẽ mờ nhạt và buồn tẻ và đau khổ như nào nếu con người ta không biết tới hương vị của tình yêu. Tình yêu không chỉ khiến ta sống đẹp, mà con khiến ta trở thành một người đặc biệt, khác biệt, giữa hàng vạn người. Từ Ôi mở đầu câu thơ, thể hiện một thái độ tràn đầy sự ngạc nhiên và xúc động, một trạng thái ngỡ ngàng trước sự trường tồn vĩnh cửu của tình yêu. Xuân Quỳnh, một cái tôi trực cảm, bà nghĩ rằng, tình yêu sẽ mãi là thứ sống sót trong lòng người, và “ngày sau” hay “ngày xưa” thì vẫn là như thế. Ý thơ mang màu sắc chủ quan, nhưng cũng thể hiện niềm tin, một màu sắc hiện đại tươi mới cho câu thơ. Tình yêu thật thiêng liêng, cao quý và là một nơi người ta khát khao được yêu thương che chở và có quyền được thương trọn vẹn một người. Cảm giác “bồi hồi” thể hiện sự monh ngóng, hi vọng luôn thường trực trong trái tim những người trẻ tuổi. Tuổi trẻ là gì nếu không yêu và được yêu? Xuân Diệu sống trọn đời vì lý tưởng này, và Xuân Quỳnh cũng vậy, luôn trẻ, vì luôn muốn yêu và được yêu.

Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?

    Hình ảnh “muôn trùng sóng bể” như biểu tượng cho cuộc đời rộng lớn bao la, ở nơi ấy, người con gái luôn mang nặng những ưu tư, suy tư, Xuân Quỳnh đảo “anh” lên trước “em” vì vậy trong suy nghĩ người con gái, người yêu luôn đặt lên vị trí hàng đầu. Con gái khi yêu ai chẳng mong muốn trả lời những câu hỏi, những suy tư của mình, muốn được người yêu giải đáp, một phần trái tim sẽ bớt chênh vênh, bớt suy tư hơn, một phần vì luôn lo lắng, trăn trở tình yêu sẽ vuột mất, nên trong lòng luôn nặng những câu hỏi cần được giải bày, “từ nơi nào sóng lên?”

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

    Một tâm trạng mong muốn được giải đáp về cội nguồn của tình yêu, vì tha thiết yêu nên càng tha thiết được trả lời những nỗi lòng mình. Nhưng dù có khát khao đến bao nhiêu, thì cũng chỉ nhận lại sự bất lực mà thôi. Tình yêu đến tình yêu đi ai biết? Chỉ biết người ta đến với nhau bằng chính những gì chân thành và thật nhất. Thái độ của em càng khiến bai thơ trở nên đáng yêu, hồn nhiên, thể hiện một sự trực cảm của người phụ nữ.

    Bốn khổ thơ đầu khép lại, thể hiện nỗi băn khoăn, trăn trở của những con sóng cũng là người con gái khi yêu. Con gái khi yêu luôn có những trăn trở suy tư cần được giãi bày. Nhờ các biện pháp đảo ngữ, tương phản đối lập đã thể hiện rõ tư tưởng và suy tư khi yêu của em, cũng như của Xuân Quỳnh. Ta thêm đồng cảm hơn với em, và càng hiểu hơn rõ hơn về tình yêu trong chính bản thân mình.


Bài mẫu 2

 Trong các nhà thơ nữ, Xuân Quỳnh được xem là nữ hoàng của tình yêu. Xuân Quỳnh viết nhiều đề tài về cuộc sống đời thường nhưng  tình yêu có lẽ là đề tài thành công, gây được tiếng vang lớn nhất trong sự nghiệp văn học của bà. Trong tiếng thơ của Xuân Quỳnh luôn thổn thức nỗi lòng yêu thương trân thành, mãnh liệt nhưng chứa chan âu lo, dự cảm chẳng lành. Đến với Sóng, hồn thơ ấy lại được thể hiện đậm nét hơn qua bốn khổ thơ đầu của bài thơ. Bốn khổ thơ chứa chan khát vọng tha thiết, nhiệt thành và cả những chông chênh của người phụ nữ trong tình yêu.

    Tròng bài thơ nổi bật lên là hai hình tượng sóng và em. Song hành với sóng là em. Em là cái tôi người phụ nữ trong tình yêu. Và để đối chiếu với em, soi chiếu rõ nét cho em, nhà thơ đã mượn hình ảnh của sóng. Dù là em hay là sóng quy tụ lại cũng chính là biểu trưng cho cái tôi của chính tác giả, cho tình yêu nồng nàn, mãnh liệt đắm say của bà.

    Biểu hiện đầu tiên đó chính là những khát khao về tình yêu và hạnh phúc đời thường của người phụ nữ.

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ”

    4 tình từ đặc tả: “dữ dội; dịu êm; ồn ào; lặng lẽ” đã cho ta thấy trạng thái phong phú, thất thường của những cơn sóng trên mặt biển khơi xa: khi thì dữ dội khi thì lặng lẽ. Và tâm trạng người phụ nữ trong tình yêu có lẽ cũng vậy khi thì nồng nhiệt, say đắm khi lại xa xôi, nhạt nhòa. Tuy nhiên đằng sau cái thất thường ấy lại muốn nói lên điều gì? Há chăng phải muốn chỉ ra rằng tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu là tâm hồn mỏng manh, nhạy cảm., và rất dễ tổn thương hay sao.  Nhưng dù bình yên dù dữ dội thì vãn là sóng và dù mãnh liệt hay lạnh nhạt thì đó vẫn là tình yêu. Tuy xa mà gần, tuy nhìn sóng xa mà lại nói lên nỗi lòng, tâm tư đau đáu.

    Có lúc dữ dội có lúc ồn ào nhưng kết lại vẫn là “lặng lẽ” và “dịu êm”. Đằng sau những biểu hiện thất thường trog tình yêu, sau tất cả về sâu thẳm người phụ nữ cũng chỉ muốn kiếm tìm cho bản thân một bến bờ tình yêu hạnh phúc, an yên. Đó có lẽ là ý nghĩa sáng nhất mà Xuân Quỳnh muốn nhắn gửi qua đôi dòng thơ mở đầu.

    Và rôi người phụ nữ đã mạnh dạn hơn, chủ động hơn:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

    Hai câu thơ xuất hiện hai không gian tương phản: sông- biểu trưng cho không gian nhỏ bé, chật hẹp. Bể gợi một không gian lớn hơn, sâu hơn. Ở trong lòng sông chật hẹp, tù túng, sóng không thể hiểu nổi mình, không thể thỏa những ước mong của mình nên sóng đã chủ động tìm ra tận bể để tự khám phá, để khát khao. Sóng muốn được sống thỏa là mình, được đắm say với những ước mớ tình yêu vĩ đại của bản thân. Cũng giống như tâm tình người phụ nữ khát khao cháy bỏng vượt qua giới hạn để kiếm tìm sự tri âm tri kỉ, được sống là chính mình, được vươn ra cái đích trong cuộc sống nhân duyên. Người phụ nữ luôn hiền hòa nhưng trong tình yêu họ lại quyết liệt và chủ động vô cùng.

    Trong đoạn thơ ta đã thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ trong tình yêu: một tâm hồn mong manh và một khát khao mãnh liệt nhất, tự do và phóng khoáng nhất được đắm chìm, đam mê trong tình yêu sẻ chia; đích thực.

    Nỗi khát vọng tình yêu luôn rạo rực trong trái tim mỗi con người

“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày nay vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

    Con sóng đặt giữa hai trạng từ chỉ thời gian: “ngày xưa- ngày nay” , triệu triệu năm trước và hàng ngàn năm sau những con sóng vẫn cứ ngày đêm dạt dào trên mặt biển. Sóng là em, soi chiếu cho em và cũng chính vì thế những con sóng cũng chính là những con sóng lòng, con sóng tinh yêu lúc nào cũng dạt dào, cuộn trào trong trái tim nhiệt thành của người phụ nữ. Ngày xwua thế và ngày sau vẫn thế. Tình yêu là vĩnh hằng và vô tận.

    Ý niệm vĩnh hằng không chỉ hiện qua thời gian mà còn hiện qua không gian. Biển tựa như lồng ngực lớn lao đất trời. Nhịp đật của sóng giống như hơi thở cồn cào của biển. Còn biển còn sóng và còn con người thì sẽ mãi còn yêu thương bất diệt. Chữ “trẻ” được khéo léo đặt cuối dòng thơ như muốn nhấn mạnh tình yêu là sức sống, là nhịp đập của tuổi trẻ, tình yêu mang đến sự tươi tắn, viết lên thanh xuân có ý nghĩa cho cuộc đời mỗi người phụ nữ. Xét đi xét lại thì xét cho cùng không chỉ riêng nhà thơ mà bất cứ ai cũng đều khát khao cháy bỏng một tình yêu vĩnh hằng, trường tồn với không gian, thời gian.

    Cái đam mê khao khát trong tình yêu đã được thể hiện một cách thật đẹp, thật tài tình và trân thành.

    Người phụ nữ trân trọng tình yêu và vì thế họ luôn muốn được tìm tòi những bí mật trong tình yêu:

“Trước muôn trùng sóng biển

Em nghĩ về anh em

Em nghĩ về biển lớn

Tự khi nào sóng lên?”

    Hàng loạt các câu thơ được bắt đầu bằng cấu trúc: “Em nghĩ” gợi đến biết bao những trăn trở, nghĩ suy trong trái tim người phụ nữ. Trăn trở được kiếm tìm, được giải đáp bao âu lo suy tư trắc trở. Không còn ẩn mình trong hình tượng sóng nữa, hình ảnh em ở đây đã được nổi lên, đặt trước cái mênh mông đát trời. Đối diện với không gian rộng lớn, bao la, nhà thơ bất giác đối sánh chiếu với cái mệnh mông, vô hạn của tình yêu. Nhưng đâu chỉ mênh mông đâu chỉ vô tận đại dương đầy bão tố kia chứa đựng biết bao bí ẩn,  khiến cho trong lòng người phụ nữ lúc này dâng lên bao trăn trở, băn khoăn, mong muốn kiếm tìm lời giải đáp. Có lẽ rằng chỉ khi yêu con người ta mới khao khát đến thế, khao khát được khám phá, được giải đáp và được thấu hiểu đến tận cùng cội nguồn của nó. Hình ảnh người phụ nữ ở đây hiện lên thật đẹp, nét đẹp đặc biệt, thật thân thiện và đáng trân trọng.

    Nối tiếp những suy nghĩ đó là câu đáp:

“Sóng bắt đầu từ gió”

    Câu trả lời chóng vánh. Nhưng những trăn trở nào đâu có dừng lại ở đó. Cũng giống như những cơn sóng miên man, dập dìu nỗi băn khoăn của người phụ nữ cũng vì thế mà nối tiếp đến vô tận:

“Gió bắt đầu từ đâu”

    Sóng từ gió còn gió lại tự đâu? Sự vật nối tiếp như dồn dập để rồi đáp lại bằng sự bối rồi nghẹn ngào:

“Em cũng không biết nữa”

    Hình ảnh em lại xuất hiện thế nhưng lại xuất hiện với cái lắc đầu ngượng ngùng bất lực, cái lắc đầu nụng nịu nhưng đầy bối rối và hạnh phúc. Tuy thế lại vô cùng đặc biệt bởi cái lắc đầu được đặt chơi vơi giữa hai câu hỏi:

“khi nào ta yêu nhau”

    Không biết chơi vơi giữa gió và tình yêu. Không biết gió có từ đâu và càng không  không thể cắt nghĩa được hạnh phúc, không biết được khi nào ta yêu nhau? Vì sao ta yêu nhau. Đó cũng chính là những bí ẩn ngàn đời của tình yêu và chính những bí ẩn này đã làm nên những quyến rũ rất riêng của tình yêu. Cũng giống như ông hoàng Xuân Diệu từng nói: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”. Tình yêu là thế, dù rằng có không thể hiểu nhưng vân bất chấp thả mình, đắm say trong nó. Tình yêu khiến cho trực cảm luôn đi trước lí trí. Đây cũng chính là lúc con người sống thật nhất với cảm xúc của mình. Tình yêu vượt qua mọi lý trí, mọi logic mọi quy luật trần thế.

    Trôi chảy theo mạch xúc cảm, bốn khổ thơ đầu đã vẽ nên nét đẹp rất Á Đông của người phụ nữ trong tình yêu. Đó là khát khao được dâng hiến, đắm chìm trong tình yêu dạt dào, nồng nàn và vĩnh cửu. Bài thơ còn toát lên nét đẹp hiện đại, rất riêng tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh thời kì đầu. Sau này dù cho nhiều đắng cay nhưng khát khao đó vẫn cháy bỏng trong trái tim nhiệt thành của nhà thơ.


Bài mẫu 3

“Nếu ngày mai em không làm thơ nữa

Cuộc sống trở về với bình yên

Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm

Không nỗi buồn không niềm vui kinh ngạc”

Bao nhiêu năm đã trôi qua kể từ ngày Xuân Quỳnh không làm thơ nữa, nhưng ta vẫn bồi hồi nhận ra tiếng thơ chị vẫn luôn là tiếng đồng vọng thiết tha cùng với những tâm hồn yêu thơ, yêu tình yêu, yêu khát vọng tuổi trẻ. từ ngày ra đi, thơ chị vẫn luôn là bài hát ru tâm tình với muôn thế hệ, hôm nay và mai sau. Nhớ tới điều này ta không thể không kể tới bài thơ Sóng – một tiếng nói của tình yêu như một chân lí sống, khẳng định khát vọng trái tim còn khao khát thì trái tim ấy còn yêu. Mở ra cho bạn đọc những xúc cảm của một trái tim đậm chất Xuân Quỳnh, đặc biệt ở 4 khổ thơ đầu.

Sóng là sự hòa quyện đan xen giữa hai hình tượng sóng và em. Xuân Quỳnh đã đứng trước biển gọi sóng ùa vào trong lòng người đọc, Xuân Quỳnh viết sóng khi có một chuyến đi thực tế ở vùng Diêm Điền, nơi đây đã để lại trong bà một sự cảm nhận đúng nghĩa, và bà nhận ra mối tương đồng giữa sóng và lòng mình. Sóng cũng chính là em.

Dữ dội và dịu êm

ồn ào và lặng lẽ

sông không hiểu nổi mình

sóng tìm ra tận bể.

Xuân Quỳnh đã sử dụng thành thạo cấu trúc song hành, đối lập giữa dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ. Từ “và” đã nối liền hai bờ cảm xúc, thể hiện như một sự tương xứng, hai mặt trong tâm trạng của một trái tim người phụ nữ đang yêu. Nhịp thơ 2/3 đan xen bằng trắc ở cuối câu, tạo ra âm điệu như sóng. Nó đã thể hiện trạng thái cảm xúc của một trái tim đậm chất Xuân Quỳnh, một cô gái nữ tính, trong sáng, hồn nhiên. Nhưng, hai câu sau lại thể hiện sự tương quan giữa sóng và bể, giữa giới hạn nhỏ bé và cái rộng lớn hơn. Nếu sông quá nhỏ bé, sóng không được là mình, không tìm thấy chính mình, thì sóng sẽ tìm đến với bể để thỏa sức là mình. Vừa hồn nhiên, vừa quyết liệt, đúng nghĩa Xuân Quỳnh.

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

nôi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ

Hình ảnh “ngày xưa” chỉ quá khứ, “ngày sau” một tương lai xa, dù khác biệt về thời gian, nhưng dù thời nào thì “vẫn thế” một chân lí tình yêu luôn tồn tại như một mẫu số chung không gì thay thế. Đây chính là một sự bất biến vĩnh hằng của sóng, cũng như khát vọng tình yêu đối với người trẻ. Mãi mãi bất diệt, mãi mãi tồn tại.

Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh,em

Em nghĩ về biển lớn

từ nơi nào sóng lên?

Là một người phụ nữ, đang có một trái tim đang yêu, thì chắc chắn rằng trong lòng sẽ luôn tồn tại những dự cảm, những trăn trở mà bản thân mong muốn được giải đáp. Ai cũng vậy thôi, cô gái ấy, một cô gái với trái tim như những con sóng vỗ dạt dào và hối hả vào bờ cát, càng mong muốn tìm ra chân lí trong tình yêu của mình. Câu hỏi “từ nơi nào sóng lên?” như thể hiện rõ rệt một sự nữ tính, trực cảm hồn nhiên.

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau?

Nghĩ về sóng là nghĩ về cội nguồn của tình yêu đôi lứa. Càng khao khát được yêu, người phụ nữ càng trở nên lo lắng, bất an, muốn nắm giữ được tình yêu của mình. Xuân Quỳnh đã rất tài năng bộc lộ được điều này, sóng có thể hiểu được bắt nguồn từ gió, nhưng gió thì có từ đâu? Cũng như tình yêu của chúng ta bắt đầu từ khi nào? Cấu trúc giữa đáp trước đến hỏi, thể hiện một sự bất lực làm nên cái thú vị, đáng yêu của lời thơ. Càng thể hiện một phong cách thơ hết sức hồn nhiên, trực cảm, nữ tính của Xuân Quỳnh. Và lời thơ ấy, cũng chính là niềm trăn trở chung của trái tim những người thiếu nữ.

Thơ Xuân Quỳnh là vậy đấy, bằng việc sử dụng thể thơ ngũ ngôn, lời thơ giản dị, trong sáng, nhịp thơ đa dạng, linh hoạt, giọng điệu lúc sôi động, lúc lại nhịp nhàng sâu lắng thể hiện rõ nét sự phức tạp, biến động của sóng cũng như tâm hồn người phụ nữ đang yêu, khát khao yêu, đang trăn trở, lo lắng, nhưng cũng hồn nhiên, vui tươi, nữ tính. Thể hiện rõ nét ngòi bút tài hoa của một tâm hồn yêu thơ, một người luôn tha thiết với đời, khát khao những tình cảm bình dị, đời thường.

Xuân Quỳnh, người phụ nữ đã để lại những vần thơ tươi xanh, những vần thơ tình yêu như tiếng nói tha thiết, Xuân Quỳnh đã không làm thơ nữa, nhưng đến giờ, ta có thể hiểu vì sao thơ bà lại được người ta đón nhận nồng nhiệt đến như vậy. Những xúc cảm chân thành, đằm thắm, như kí thác của một tâm hồn nhân hậu và hồn nhiên. Lời thơ cứ thế vương vấn, cứ thế đọng lại mãi trong lòng người đọc muôn thế hệ.


Bài mẫu 4

Xuân Quỳnh là cây bút của hạnh phúc đời thường. Những sáng tác thơ ca của bà là tiếng lòng của một tâm hồn luôn luôn khao khát tình yêu, gắn bó với cuộc sống đời thường hàng ngày, trân trọng, nâng niu và chăm chút cho hạnh phúc giản dị đơn sơ. Xuân Quỳnh được mệnh danh là bà hoàng của thơ ca viết về chủ đề tình yêu. Rất nhiều những tác phẩm tiêu biểu đặc sắc của bà đều có chung chủ đề này, những có có lẽ đặc sắc hơn cả đó là bài thơ Sóng. Bởi bài thơ này nói lên được một tâm hồn khao khát có được niềm hạnh phúc trong tình yêu, một tình yêu vừa hồn nhiên chân thật, lại vừa mãnh liệt, sôi nổi của một trái tim phụ nữ.

Tình yêu là đề tài quen thuộc và là đề tài muôn thuở trong thi ca. Nhiều nhà thơ nổi tiếng đã viết về đề tài này với tất cả sự nồng nhiệt của một trái tim tuổi trẻ. Ta đã bắt gặp một Xuân Diệu nồng nàn, say đắm và khát khao dâng hiến cho tình yêu, một Nguyễn Bính luôn mơ màng tìm về tình yêu đồng nội, hay một Anh Thơ tha thiết nhưng thẹn thùng mang nét duyên con gái… nhưng chỉ đến Xuân Quỳnh, cái khát vọng rất đỗi đời thường, giản đơn của con người đó mới được bộc bạch, thổ lộ, mà thổ lộ một cách chân thành như chính cuộc đời của nhà thơ vậy: một thứ tình yêu vừa phong phú, phức tạp lại vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ luôn tràn đầy những rạo rực, khát khao yêu đương.

Hình tượng Sóng trong bài thơ mang hình ảnh ẩn dụ. Nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình mang đầy mơ mộng của thi nhân. Sóng và em như hòa chung tuy hai mà một, có lúc thì phân đôi rạch ròi để soi chiếu vào nhau làm nổi bật sự tương đồng, có lúc lại hòa chung vào nhau để tạo nên âm vang cộng hưởng. Và có thể nói qua hình tượng sóng đó, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã bày tỏ một tình yêu dạt dào, mênh mông và một khát vọng muôn đời về tình yêu đôi lứa.

Mở đầu bài thơ những câu thơ mang trạng thái tâm lý đặc biệt của một tâm hồn đang khao khát được yêu đương, đang tìm đến một tình yêu rộng lớn hơn. Nhà thơ đã diễn tả thật cụ thể cái trạng thái khác thường, vừa phong phú lại vừa phức tạp trong một trái tim đang cồn cào khao khát tình yêu. Tính khí bất thường của người con gái đang yêu, cũng như sóng vậy, vốn mang trong mình nhiều trạng thái đối cực như: “Dữ dội và dịu êm” / “Ồn ào và lặng lẽ”… Cũng như sóng, với một người con gái đang yêu, trái tim họ không chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp mà luôn muốn vươn tới cái lớn lao để có thể đồng cảm, đồng điệu với mình “Sông không hiểu nổi mình” nên “ Sóng tìm ra tận bể”. Có thể thấy ngay trong những câu thơ đầu tiên này ta đã thấy một nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh. Người con gái luôn khao khát yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa. Nếu như “Sông không hiểu nổi mình” nữa thì sóng sẽ dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp, nhỏ bé đó để “tìm ra tận bể”, đến với cái rộng lớn, bao dung hơn. Thật là mạnh dạn và cũng thật quyết liệt !

Nỗi khát vọng về tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim mỗi con người, trong quan niệm của Xuân Quỳnh, đó chính là khát vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Nó cũng như sóng vậy, mãi mãi trường tồn, bất diệt và vĩnh hằng với thời gian. Từ ngàn xưa, con người ta đã đến với tình yêu và mãi mãi vẫn cứ đến với tình yêu. Với con người, tình yêu bao giờ cũng là thứ gì đó khiến con người ta khát vọng bồi hồi:

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày nay vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Khi tình yêu đến, như một trạng thái tâm lý tự nhiên và thường tình, người ta sẽ luôn có những thắc mắc và nhu cầu tự tìm hiểu, phân tích. Nhưng tình yêu nó là một hiện tượng tâm lý khác thường, đầy bí ẩn mà không thể giải quyết được bằng những lý lẽ thông thường, làm sao có thể giải đáp, lý giải được câu hỏi về nguồn cội của tình yêu, về thời điểm bắt đầu của một tình yêu. Cái điều mà trước đó Xuân Diệu đã từng băn khoăn “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?” thì nay một lần nữa Xuân Quỳnh cũng bộc bạch một cách hồn nhiên, ngây thơ thật dễ thương. Tình yêu nó cũng như sóng biển, như gió trời vậy thôi, làm sao ta có thể hiểu hết được. Nó cũng tự nhiên, cũng khó hiểu và nhiều bất ngờ như tự nhiên vậy:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Tình yêu thường gắn liền với nỗi nhớ nhung khi xa cách. Nỗi nhớ tha thiết của một trái tim đang yêu được nhà thơ Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh liệt. Một nỗi nhớ thường trực ngay cả khi thức, cả khi ngủ, nó bao trùm lên cả không gian mênh mông. Một nỗi nhớ cồn cào, da diết, chẳng thể nào yên mà cũng chẳng thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn, dào dạt, mãnh liệt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô tận. Nhịp thơ trong suốt cả bài thơ là nhịp sóng, nhưng rõ nét nhất, dào dạt, hăm hở, náo nức và mãnh liệt nhất là trong đoạn thơ này:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Hai câu thơ trên với hình thức lặp cấu trúc hòa quyện cùng với nghệ thuật đối lập “dưới lòng sâu” và “trên mặt nước” tạo nên sự trùng điệp của những con sóng với nhiều những dạng thức khác nhau. Có con sóng gầm gào, dữ dội trên mặt đại dương nhưng cũng có con sóng cuộn trào âm thầm trong lòng biển cả. Nhì là vậy nhưng con sóng ngầm còn mãnh liệt, dữ dội hơn cả con sóng trên mặt nước. Cả hai kết hợp nhịp nhàng với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển. Sóng là em mà em cũng là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những dòng tâm trạng phức tạp khó hiểu. Lúc lặng lẽ, êm đềm, dịu êm khi nồng nàn dữ dội, mãnh liệt nhưng dù thế nào đi nữa, em vẫn mãi là em, vẫn mãi ấp ủ trong lòng một nỗi nhớ thương không dứt. Cũng như con sóng kia thôi, dù dịu êm hay dữ dội thì em cũng nhớ anh mà “Ngày đêm không ngủ được”

Xuân Quỳnh đã vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động là “sóng” để diễn tả nỗi niềm của người phụ nữ khi đang yêu. Sóng thì muôn đời vẫn thế, có bao giờ thôi vỗ sóng đâu, lúc nào mà chẳng cồn cào, có lúc nào thôi ngừng hành trình đến với bờ dù có muôn vàn cách trở. Sóng chẳng còn là sóng nếu nó tĩnh yên, lặng lẽ. Vì vậy mà sóng đã được Xuân Quỳnh lựa chọn để diễn tả bằng một từ ngữ rất sáng tạo “không ngủ được”. Sóng là vậy, dù dữ dội trên mặt biển hay lặng yên dưới lòng đại dương thì ngàn đời nó vẫn khát khao tìm về với bến bờ tĩnh tại. Chưa đến được bờ thì vẫn nhớ thương, thương nhớ, vẫn thao thức một nỗi niềm. Vì nhớ bờ nên con sóng đã hành trình vượt qua cả không gian bao la và thời gian xa thẳm. Nó đã bất chấp cả thời gian “ngày đêm không ngủ được” để quyết tâm một lòng hướng vào bờ cho thỏa nỗi niềm mong nhớ.

Và nếu sóng nhớ bờ thì em cũng nhớ anh. Đó cũng chính là quy luật của tình yêu.

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Chữ “lòng” được Xuân Quỳnh sử dụng một cách rất tinh tế. Lòng là nơi sâu kín nhất của tâm hồn con người, nơi chứa những bí mật thẳm sâu của tình yêu và nỗi nhớ. Khi Xuân Quỳnh nói “lòng em nhớ” có nghĩa là bà đã đem hết tất cả gan ruột của mình để gửi về người mình yêu. Không chỉ dừng lại trong thời gian được ý thức mà nỗi nhớ còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ. Vị ngọt ngào mê đắm của tình yêu lan tỏa trong cái cách nói đầy nghịch lý “cả trong mơ còn thức”.

Điểm sáng của nghệ thuật trong bài thơ được lóe lên trong câu thơ “cả trong mơ còn thức”. Nó làm đảo lộn nhịp sống bởi tình yêu luôn là thứ làm cho con người ta khó thức ngủ theo giấc giờ sinh hoạt điều độ. Nỗi nhớ không chỉ là làm lòng em “bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa như ngồi trong than” trong ca dao mà nó còn làm cho em nhớ nhung, thao thức ngay cả trong những giấc ngủ. Có thể nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã bộc lộ được tài năng vượt bậc trong thi ca hiện đại Việt Nam.

Sóng và em như hòa quyện, như quấn vào nhau. Em lặng đi để sóng có thể trào lên. Nhưng sóng cũng là em, sóng trào lên mang theo đó lớp lớp tâm tình của em:

“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam”

Thế giới của Anh và Em chẳng giới hạn chiều dài Nam – Bắc, cũng chẳng khoanh vùng địa bàn mà dường như nơi nào cũng có nỗi nhớ thường trực của tình yêu vĩnh cửu. Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nói là “Xuôi Nam, ngược Bắc” nhưng với Xuân Quỳnh thì bà lại nói “Xuôi Bắc, ngược Nam” – một cách nói ngược. Phải chăng tình yêu kia đã làm cho con người bị đảo lộn về phương hướng ? Nhưng có một phương mà dù thế nào em cũng không thể lẫn lộn, không thể nào nguôi nhớ đó chính là phương anh:

“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”

Thế mới biết tình yêu của Xuân Quỳnh nồng nàn, mãnh liệt dường nào. Hướng về anh thì có thể thay đổi được nhưng với lời khẳng định chắc nịch rằng “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã trở thành một “hệ quy chiếu” của đời em. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp khoảng cách, thời gian, vạn vật, tình yêu là sự gặp gỡ, sự đồng điệu giữa hai tâm hồn không có giới hạn.

Nếu như những khổ thơ trước Xuân Quỳnh nói về niềm vui sướng dào dạt, những nỗi nhung nhớ giận hờn thì đoạn thơ này bà lại thể hiện những nỗi băn khoăn, lo lắng. Đó cũng chính là trực cảm của tình yêu.

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Cụm từ “Ở ngoài kia” cho ta mường tượng ra hình ảnh cánh tay Xuân Quỳnh mềm mại đang chỉ về khơi xa nơi có trăm ngàn con sóng ngày đêm không biết mệt mỏi đang vượt qua giới hạn của không gian thăm thẳm với muôn vàn cách trở để hướng vào bờ ôm ấp nỗi yêu thương. Cũng như “em” mong muốn được gần bên anh, được hòa nhịp vào trong tình yêu đôi ta. Tình yêu của người con gái thật cháy bỏng, mãnh liệt, nồng nàn. Sóng dù ở nơi xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ như tìm về với nguồn cội yêu thương, cũng như anh và em sẽ vượt qua hết mọi khó khăn, thử thách để đến với nhau, để sống trong niềm hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Qua khổ thơ trên Xuân Quỳnh dường như đã phần nào cho người đọc nhận thức rõ về những dự cảm và nỗi băn khoăn của bà. Những cụm từ “tuy dài thế” “vẫn đi qua”, “dẫu rộng” trong đó như chứa đựng ít nhiều nỗi âu lo. Tuy là thế nhà thơ vẫn một lòng tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành sâu sắc của mình sẽ vượt qua được tất cả như áng mây kia như năm tháng kia. Có thể nói Xuân Quỳnh yêu thương tha thiết, mãnh liệt như vậy nhưng cũng rất tỉnh táo để nhận thức dự cảm về những trắc trở, thử thách trong tình yêu; đồng thời cũng luôn tin tưởng vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua mọi thử thách, gian nan để đến với bến bờ hạnh phúc. Vì vậy, sóng sẽ đến bờ, năm tháng sẽ trôi qua thời gian dài đằng đẵng và đám mây nhỏ bé ấy sẽ vượt qua biển rộng mênh mông để bay về xa. Một loạt những hình ảnh thơ ẩn dụ được bố trí thành một hệ thống tương phản, đối lập để về những dự cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào sức mạnh to lớn của tình yêu.

Yêu thương mãnh liệt nhưng thật cao thượng, vị tha. Nhân vật trữ tình khao khát được hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào với tình yêu bao la, rộng lớn của biển rộng –– để sống hết mình trong tình yêu và để tình yêu riêng tư hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”

Cuộc đời là biển lớn tình yêu, là kết tinh vị mặn ân tình, được tạo lên và hòa lẫn cùng hàng trăm con sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận một cá nhân không thể nào tách khỏi cộng đồng. Khi con sóng tan ra thành hàng ngàn những bọt nước nhỏ sẽ được ở lại với biển khơi mãi mãi, sẽ chẳng còn những đau khổ, những lo âu, bồn chồn. Đó cũng là ước muốn, là khao khát của người con gái mong ước được sống với tình yêu, với người mà mình yêu thương trọn đời trọn kiếp. Nhà thơ đã mượn nét tương đồng của con sóng để diễn tả nội tâm của người con gái trong tình yêu điều đó giúp người đọc dễ hình dung ra và có những liên tưởng thú vị.

Bài thơ này được Xuân Quỳnh viết vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang trong vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái đang ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hay khi sân ga, bến nước, sân đình diễn ra những cuộc chia ly nhuốm màu máu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh lúc bấy giờ ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao to lớn của người con gái trong tình yêu.

Tóm lại, bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh là bài thơ mang ý nghĩa to lớn về nội dung và giàu tính nghệ thuật. Thành công nhất của bài thơ đó là nhờ vào thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, đối lập ẩn, dụ, so sánh nhất là ở thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu. Nhịp điệu của sóng cũng là nhịp điệu của tâm hồn. Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng thấy ngưỡng mộ hơn người phụ nữ Việt Nam, những con người mà luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu bất diệt. Xuân Quỳnh quả xứng đáng là một thi sĩ của tình yêu lứa đôi, bà đã góp phần làm phong phú hơn cho nền thơ ca nước nhà.


Bài mẫu 5

Ta từng biết đến những vần thơ yêu đương vội vàng, hối hả của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu:

“Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt”.

Nhưng cũng không thể không nhắc đến một Xuân Quỳnh với tình yêu dịu dàng, nhưng đậm sâu, khắc khoải, điển tình của người con gái. Tình yêu ấy đã được thể hiện đầy đủ và trọn vẹn nhất trong bài: “ Sóng ”.

Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, viết khi bà đứng trước biển Diêm Điền. Lúc này Xuân Quỳnh đang ở độ tuổi 25, vừa trải qua những đổ vỡ trong tình yêu. Người phụ nữ ở độ tuổi này có suy nghĩ rất chín về tình yêu; mặt khác cũng thấy được ý thức của cái “tôi” bên cạnh cái ta chung. Tác giả cũng không đặt tình yêu trong quan hệ cảm tính một chiều mà thể hiện khát vọng tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức, khám phá.

Mở đầu bài thơ với hai câu thơ cùng cấu trúc tạo nên những làn sóng vừa nhẹ nhàng vừa mạnh mẽ: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”. Câu thơ tạo thành hai cặp đối lập: “dữ dội / ồn ào” và “dịu êm / lặng lẽ”, chỉ với bốn tính từ nhưng Xuân Quỳnh đã diễn tả đầy đủ những cung bậc khác nhau của sóng. Đây đồng thời cũng chính là cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Xuân Quỳnh ngắt nhịp 2/3 cho câu thơ, đồng thời với sự luân phiên nhịp nhàng bằng trắc đã có thấy sự đối nghịch trong những trạng thái của sóng, cũng là trạng thái của em, với liên từ “và” đã khẳng định dù chúng là những xúc cảm đối nghịch nhưng luôn song song tồn tại với nhau, không mâu thuẫn mà đan xen, vận động và có sự chuyển hóa. Đây chính là những cung bậc cảm xúc phức tạp trong tâm hồn người con gái đang yêu.

Chuyện tình yêu mấy ai có thể hiểu sâu sắc và tường tận, nhưng người con gái ở đây không chịu những yếu tố mập mờ như thế, cô quyết tâm từ bỏ không gian nhỏ hẹp, đến với không gian rộng lớn:

Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Đây quả thực là một quyết định hết sức táo bạo, quyết liệt của người con gái. Nó khác hẳn người con gái trong xã hội cũ luôn bẽn lẽn, thẹn thùng, không dám quyết định cuộc đời mình. Còn người con gái chủ động tìm kiếm câu trả lời, tìm kiếm hạnh phúc.

Khát khao được yêu thương là nỗi khát khao muôn đời, đặc biệt là tuổi trẻ. Xuân Diệu đã từng viết rằng: “Làm sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một người nào”. Yêu đương như một lẽ tất yếu của con người, và người con gái trong bài thơ cũng vậy, nỗi khát khao tình yêu bồi hồi trong lồng ngực trẻ, luôn thổn thức, rực cháy. Các từ “ngày xưa”, “ngày sau” khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của sóng cũng như sự trường tồn vĩnh cửu, bất diệt của tình yêu:

Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Trong bất cứ vấn đề nào của cuộc sống, con người luôn có nhu cầu giải mã, lí giải chúng và trong tình yêu của không phải là một ngoại lệ: “Trước muôn trùng sóng bể /…/ Khi nào ta yêu nhau”. Hình tượng sóng được Xuân Quỳnh sử dụng để diễn tả bản chất của tình yêu đó là sự bí ẩn không thể lí giải được. Giữa em và muôn trùng sóng bể có sự đối lập rất rõ nét, em nhỏ bé, mong manh, hữu hạn trước cái vô biên, rộng lớn của vũ trụ, chính điều đó đã làm thức dậy những suy tư, trăn trở trong lòng cô gái đang yêu. Từ “em nghĩ” được lặp lại hai lần, nhấn mạnh vào nhu cầu khám phá, cắt nghĩa. Em nghĩa về biển lớn “Từ nơi nào sóng lên?” và câu trả lời là “Sóng bắt đầu từ gió”; em nghĩ về anh và em, là câu hỏi muôn đời: “Khi nào ta yêu nhau?”, và câu trả lời thật chính xác: “Em cũng không biết nữa”. Quả đúng tình yêu chẳng thể đong đếm, cân đo chính xác từng giây phút, từng thời điểm, tình yêu như một cơn mưa rào, bất chợt đến khiến ta ngỡ ngàng, hạnh phúc. Hai câu hỏi của nhân vật trữ tình đan cài, hòa quyện vào nhau, chúng dường như nhập vào làm một. Nếu như nguồn gốc của sống, ta có thể cắt nghĩa được, thì nguồn cội của tình yêu ta lại không thể cắt nghĩa nổi. Đó là một điều lạ lùng, bí ẩn, đây cũng chính là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn cho tình yêu.

Những nhịp sóng khi êm đềm, khi dâng lên cuộn trào cũng như chính cung bậc cảm xúc trong tình yêu: Con sóng dưới lòng sâu/ …/ Dù muôn vời cách trở. Nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ này, nỗi nhớ ấy gắn với không gian “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, với “bờ”; nó bao trùm cả thời gian “ngày đêm không ngủ được”, và xâm chiếm tâm hồn con người, ngay cả trong vô thức “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Một tiếng “nhớ” thôi mà đã diễn tả đầy đủ được tình yêu em dành cho anh. Đồng thời đây là khổ duy nhất trong bài có đến 6 câu thơ, sự phá cách ấy đã góp phần diễn tả trào dâng mãnh liệt của nỗi nhớ trong tình yêu.

Nỗi nhớ da diết, khắc khoải đi cùng với sự thủy chung, son sắt trong tình yêu của nhân vật trữ tình: “Dẫu xuôi về phương Bắc/…/ Hướng về anh – một phương”. Phương Bắc và phương Nam là hai địa danh cách xa nhau hàng ngàn cây số, sử dụng hai danh từ này nói lên sự xa xôi, cách trở. Đặc biệt trong cách dùng từ xuôi về Bắc, ngược về Nam dường như đã hàm chứa sự cách trở, éo le, những biến động trong cuộc đời. Nhưng đối lập với cái thường biến ấy là sự bất biến “Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh – một phương”. Đó là biểu hiện của tấm lòng thủy chung, son sắt.

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Trong khổ thơ, Xuân Quỳnh sử dụng rất sáng tạo cặp hình ảnh ẩn dụ “sóng – bờ” ở đây được sử dụng rất mới mẻ dù đã được nói đến nhiều trong ca dao, thơ cũ. Nếu trong ca dao, sóng/ thuyền/ đò là ẩn dụ cho người con trai, bờ/ bến ẩn dụ cho người con gái; thì ở đây “sóng” lại là hình ảnh của người con gái, “bờ” là niềm hạnh phúc sum vầy. Như vậy, trong khổ thơ, ta không chỉ thấy vẻ đẹp của một tình yêu mãnh liệt, thủy chung mà còn thấy được sự chủ động đầy mạnh mẽ của người con gái khi yêu.

Từ bỏ cái chật chội, bé nhỏ Xuân Quỳnh hướng đến cái lớn lao hơn, đẹp đẽ hơn đó là khát vọng dâng hiến và bất tử hóa tình yêu: Cuộc đời tuy dài thế/…/ Để ngàn năm còn vỗ. Khổ thơ thứ tám vừa là suy tư về không gian, thời gian nhưng đồng thời cũng thể hiện những nhận thức trong tình yêu và đi đến ước nguyện được tan ra, được dâng hiến trọn vẹn trong tình yêu. Nhà thơ khao khát tình yêu của mình hòa trong tình yêu của mọi người. “Tan ra” không phải mất đi mà hoà giữa cái chung và cái riêng. Tình yêu như thế không bao giờ cô đơn.

Bài thơ sáng tạo hình tượng sóng đặc sắc, giàu ý nghĩa biểu tượng. Kết hợp với kết cấu song hành giữa “sóng” và “em” khi đang cài, hòa quyện làm một khi tách rời, độc lập để nhìn ngắm, nhận thức và soi chiếu nhau. Thể thơ ngũ ngôn, giàu nhịp điệu, ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc đã góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm.

Với hình tượng “sóng” giàu sức biểu cảm và trên cơ sở khám phá sự tương đồng “sóng” và “em”, Xuân Quỳnh đã diễn tả một cách chân thực và đầy đủ nhất tình yêu của một người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách, bão giông của cuộc đời và sự hữu hạn của đời người để sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu ấy vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa có những nét hiện đại.

---/---

Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích 4 khổ thơ đầu bài Sóng do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 10/04/2024