logo

Nghị luận phân tích chủ đề và những nét đặc sắc nghệ thuật về bài thơ Bảo kính cảnh giới số 28

'Bảo kính cảnh giới' là bộ thơ gồm 62 bài, thuộc tập 'Quốc âm thi tập' của Nguyễn Trãi. Các bài thơ này đều không có nhan đề mà được đặt theo số thứ tự. Nội dung chủ yếu viết về quê hương, đất nước và con người của ông. Cùng Toploigiai nghị luận phân tích bài thơ "Bảo Kính Cảnh Giới số 28 của Nguyễn Trãi để thấy được khung cảnh thiên nhiên và con người dưới đây


Nghị luận phân tích chủ đề và những nét đặc sắc nghệ thuật về bài thơ Bảo kính cảnh giới số 28 - Mẫu 1

Trong dòng chảy của văn học Việt Nam, bài thơ "Bảo Kính Cảnh Giới số 28 của Nguyễn Trãi tỏa sáng như một viên ngọc quý, không chỉ bởi vẻ đẹp mà hơn thế, là sự tinh tế và sâu sắc trong cách diễn đạt cảm xúc và tư duy. Bức tranh mà bài thơ vẽ ra không chỉ là hình ảnh quê hương mà còn là một hành trình tinh thần đầy ý nghĩa.

“Nghìn dặm xem mây nhớ quê,
Chẳng chờ cởi ấn gượng xin về.
Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại,
Hai chữ công danh biếng vả vê.
Dẫn suối nước đầy cái trúc,
Quẩy trăng túi nặng thẳng hề.
Đã ngoài chưng thế dầu hơn thiệt,
Chẳng quản ai khen chẳng quản chê.”

Trong bài thơ, Nguyễn Trãi không chỉ đơn thuần miêu tả vẻ đẹp của quê hương mà còn chứa đựng những cảm xúc sâu lắng của người viết. Hành động "xem mây nhớ quê" không chỉ là một hành động vật chất mà còn là sự khao khát tinh thần của người xa quê. Hình ảnh mây trắng bồng bềnh trên bầu trời xa xăm đưa người đọc vào không gian yên bình của quê hương, và đồng thời, làm nổi bật sự nhớ nhung, lòng thương quê hương trong tâm trí người viết. Ở đây, "cởi ấn" có thể hiểu là việc làm cố gắng, nỗ lực, một cách cố chấp. Có thể hiểu rằng người viết không muốn phải trải qua những bước quá nhiều và cảm thấy không cần thiết để đến với quê hương của mình. "Gượng xin về" mang ý nghĩa của việc thể hiện lòng mong mỏi, khát khao trở về quê hương, nhưng vẫn giữ lại một phần kiên nhẫn và chờ đợi. "Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại, Hai chữ công danh biếng vả vê" đã thể hiện một quan điểm sống tự lập và tĩnh lặng. Ý nghĩa của cuộc sống không chỉ là công danh hay thành tựu về vật chất mà còn là sự tự do, bình yên và tự chủ trong tâm hồn. Bức tranh về một người sống tự tại với bầu không khí thanh tịnh của trăng và suối nước là một lời nhắc nhở về giá trị thực sự của cuộc sống, và cũng là một lối sống mà mỗi người nên tìm kiếm.

Nghị luận phân tích chủ đề và những nét đặc sắc nghệ thuật về bài thơ Bảo kính cảnh giới số 28

"Công danh" đại diện cho những trách nhiệm, áp lực và cuộc sống xã hội. "Biếng vả vê" thể hiện sự lười biếng, không muốn bận tâm hoặc chịu đựng những gánh nặng của xã hội.Câu này thể hiện sự phản kháng, sự thoải mái trong việc từ chối hoặc không quan tâm đến những giá trị vật chất hay xã hội mà người khác đặt lên. Qua phân tích chi tiết từng câu trong bài thơ, chúng ta có thể thấy được sự tinh tế và sâu sắc của Nguyễn Công Hoan trong việc diễn đạt cảm xúc và tư duy của mình thông qua những hình ảnh và từ ngữ đầy ý nghĩa.

“Dẫn suối nước đầy cái trúc,
Quẩy trăng túi nặng thẳng hề.
Đã ngoài chưng thế dầu hơn thiệt,
Chẳng quản ai khen chẳng quản chê.”

Hình ảnh “Dẫn suối nước đầy cái trúc” tạo ra một hình ảnh rất sống động về cảnh đẹp và bình yên của quê hương. Hình ảnh của suối nước mát lạnh, lấp lánh trong ánh nắng, với trúc xanh um tươi tắn, tạo nên một bức tranh tự nhiên tươi đẹp. Đặc biệt, việc sử dụng từ "cái" trước "trúc" cho thấy sự gần gũi, thân thuộc và cụ thể hóa hơn trong miêu tả. Bằng cách sử dụng hình ảnh của việc "quẩy" trăng, tạo ra một sự tương phản hấp dẫn. Trong tâm trí, việc "quẩy" thường liên quan đến việc làm một cách vụng về, không tự nhiên. Tuy nhiên, việc "quẩy" trăng ở đây có thể hiểu là cách người viết miêu tả việc nắm lấy vẻ đẹp của trăng một cách mạnh mẽ, quyết đoán và một cách tự tin. "Túi nặng" có thể ám chỉ rằng vẻ đẹp của trăng vẫn nặng trĩu trong lòng người, không thể nào cất giấu được. "Thẳng hề" có thể diễn đạt ý định không che đậy, không phô trương, mà thể hiện một cách tự nhiên, chân thành. Câu tiếp theo có thể hiểu là trải qua những trải nghiệm của cuộc sống, vượt qua những khó khăn, thách thức và trải qua những biến cố và thể hiện rằng dù ở ngoài thế giới có bao nhiêu sự giả dối, sự phù phiếm, thì giá trị thực sự của mỗi con người không thể mất đi, thể hiện lòng tin vào giá trị bản thân và sự kiên định trong lòng người viết giữa những biến động của cuộc sống. Trong câu cuối cùng của tác phẩm, tác giả đã tôn vinh sự độc lập tinh thần và sự tự tin, ông không quan tâm đến việc được khen ngợi hay bị phê phán mà tự tin với bản thân và công trình của mình, không để ý đến sự đánh giá của người khác. Điều này cũng thể hiện sự độc lập tinh thần và ý chí kiên định của tác giả trong việc theo đuổi đam mê và sứ mệnh của mình. Trong bài thơ "Bảo Kính Cảnh Giới số 28 của Nguyễn Trãi, từng câu văn đã được xây dựng một cách tinh tế, lôi cuốn và sâu sắc. Từ hình ảnh đến tư duy, tác phẩm đã thể hiện một cách rõ ràng nhất sự đẹp và ý nghĩa của quê hương, cuộc sống và ý thức con người. Sự kết hợp khéo léo giữa thiên nhiên và tâm trạng con người cùng với sự phản ánh triết lí sâu sắc về cuộc sống đã tạo nên một bức tranh văn học tinh tế và đầy ý nghĩa. Bằng cách sử dụng ngôn từ và hình ảnh sinh động, bài thơ đã thổi vào lòng độc giả làn gió mới về giá trị thực sự của cuộc sống và sức mạnh của ý chí con người.

Trong tác phẩm, từng câu văn đều như những bức tranh sống động, lấp lánh ánh sáng của tri thức và tình cảm. Bài thơ không chỉ là một hiện thân của vẻ đẹp nghệ thuật mà còn là một cẩm nang triết lý về cuộc sống, khơi dậy tinh thần và sự suy ngẫm sâu xa trong lòng người đọc.


Nghị luận phân tích chủ đề và những nét đặc sắc nghệ thuật về bài thơ Bảo kính cảnh giới số 28 - Mẫu 2

Sedrin từng nói: “Văn học vượt qua mọi định luật hăng hoại của thời gian chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”, và có lẽ đâu đó trong kho tàng văn học Việt Nam, ta đã bắt gặp những tác phẩm kinh điển, chống lại quy luật của vũ trụ. Có lẽ trong đó không thể không kể đến bài thơ "Bảo Kính Cảnh Giới” số 28 của Nguyễn Trãi, nó tỏa sáng như một viên ngọc quý không chỉ bởi vẻ đẹp mà hơn thế, là sự tinh tế và sâu sắc trong cách diễn đạt cảm xúc và tư duy. Bức tranh mà bài thơ vẽ ra không chỉ là hình ảnh quê hương mà còn là một hành trình tinh thần đầy ý nghĩa.

“Nghìn dặm xem mây nhớ quê,
Chẳng chờ cởi ấn gượng xin về.
Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại,
Hai chữ công danh biếng vả vê.
Dẫn suối nước đầy cái trúc,
Quẩy trăng túi nặng thẳng hề.
Đã ngoài chưng thế dầu hơn thiệt,
Chẳng quản ai khen chẳng quản chê.”

Nguyễn Trãi ,hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà văn, nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam của thời Hậu Lê. Ông được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa của thế giới” và là 1 trong 14 anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Nguyễn Trãi được mô tả là một nhà văn có tâm hồn thanh cao, uyên bác, và tầm nhìn sâu rộng. Tác phẩm của ông thường chứa đựng những giá trị nhân văn, triết lý sâu sắc và tình yêu quê hương, có lẽ mà từ đó ông viết “Bảo Kính Cảnh Giới” sâu sắc và thấm đẫm tình yêu quê nhà đến như vậy

“Nghìn dặm xem mây nhớ quê,
Chẳng chờ cởi ấn gượng xin về...”

Trong bài thơ, Nguyễn Trãi không chỉ đơn thuần miêu tả vẻ đẹp của quê hương mà còn chứa đựng những cảm xúc sâu lắng của ông. Hành động "xem mây nhớ quê" không chỉ là một hành động thể chất mà còn là sự khao khát tinh thần của người xa quê, mây trắng bồng bềnh trên bầu trời xa xăm đưa người đọc vào không gian yên bình của quê hương và đồng thời, làm nổi bật sự nhớ nhung, lòng thương quê hương trong tâm trí người viết. Ở đây, "cởi ấn" có thể hiểu là việc làm cố gắng, nỗ lực, một cách cố chấp. Có thể hiểu rằng người viết không muốn phải trải qua những bước quá nhiều và cảm thấy không cần thiết để đến với quê hương của mình. Trong câu tiếp theo, tác giả sử dụng động từ “gượng xin về nhằm thể hiện lòng mong mỏi, khát khao trở về quê hương nhưng vẫn giữ lại một phần kiên nhẫn và chờ đợi. Từ đó thể hiện quan điểm sống tự lập và tĩnh lặng, khẳng định giá trị của sự tự do so với sự phải theo đuổi công danh và danh vọng trong xã hội. Tư duy phóng túng và thoái trào được ưa chuộng hơn là sự mệt mỏi trong việc thể hiện bản thân trong một xã hội đầy áp lực.,. Ý nghĩa của cuộc sống không chỉ là công danh hay thành tựu về vật chất mà còn là sự tự do, bình yên và tự chủ trong tâm hồn. Bức tranh về một người sống tự tại với bầu không khí thanh tịnh của trăng và suối nước là một lời nhắc nhở về giá trị thực sự của cuộc sống, và cũng là một lối sống mà mỗi người nên tìm kiếm. Trong 2 câu thơ tiếp, Nguyễn Trãi thể hiện sự phản kháng, sự thoải mái trong việc từ chối, không quan tâm đến những giá trị vật chất hay xã hội mà người khác đặt lên.

“Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại,
Hai chữ công danh biếng vả vê...”

"Một bầu phong nguyệt" có thể hiểu là một cảnh tượng của một bầu trời thanh tịnh, trong lành, được ánh trăng chiếu sáng trong bức tranh vùng quê nhẹ nhàng và êm ái.Hình ảnh đó không chỉ đơn thuần là một phong cảnh thiên nhiên, mà còn là biểu tượng cho sự trong sáng và thanh tịnh trong tâm hồn của nhà thơ. Ở nơi đó, ông được an nhàn và tự do, không bị ràng buộc hay áp đặt bởi những điều gì khác. Nguyễn Trãi  phớt lờ, không quan tâm đến những điều vụ lợi và danh vọng trong cuộc sống để tận hưởng sự an nhàn và thoải mái trong tâm hồn, ông đề cao chúng hơn tất thảy mọi thứ, hơn cả công danh sự nghiệp. Trong những câu văn cuối cùng của bài thơ, tác giả đã hòa làm một với thiên nhiên. Ông không chỉ là một người quan sát, mà còn là một phần không thể tách rời của cảnh vật tự nhiên, là một phần của sự sống mãnh liệt và bất diệt của thiên nhiên.

“Dẫn suối nước đầy cái trúc,
Quẩy trăng túi nặng thẳng hề.
Đã ngoài chưng thế dầu hơn thiệt..”

Mở đầu bằng hình ảnh “Dẫn suối nước đầy cái trúc” đã tạo ra một hình ảnh rất sống động về cảnh đẹp và bình yên của quê hương. Hình ảnh của suối nước mát lạnh, lấp lánh trong ánh nắng, với trúc xanh um tươi tắn, tạo nên một bức tranh tự nhiên tươi đẹp. Đặc biệt, việc sử dụng từ "cái" trước "trúc" cho thấy sự gần gũi, thân thuộc và cụ thể hóa hơn trong miêu tả. Hơn thế nữa, ta thấy Nguyễn Trãi sử dụng hình ảnh của việc "quẩy" trăng, tạo ra một sự tương phản hấp dẫn bởi việc "quẩy" thường liên quan đến việc làm một cách vụng về, không tự nhiên. Tuy nhiên, việc "quẩy" trăng ở đây có thể hiểu là cách nhà thơ miêu tả việc nắm lấy vẻ đẹp của trăng một cách mạnh mẽ, quyết đoán và một cách tự tin. Vẻ đẹp của trăng vẫn nặng trĩu trong lòng người, không thể nào cất giấu được, tình mến muội ấy không che đậy nhưng cũng không phô trương, mà thể hiện một cách tự nhiên, chân thành. Dù ở ngoài thế giới có bao nhiêu sự giả dối, sự phù phiếm, thì giá trị thực sự của mỗi con người không thể mất đi, thể hiện lòng tin của tác giả vào giá trị bản thân và sự kiên định giữa những biến động của cuộc sống. 
“Chẳng quản ai khen chẳng quản chê.”
Trong câu cuối cùng của tác phẩm, tác giả đã tôn vinh sự độc lập tinh thần và sự tự tin, ông không quan tâm đến việc được khen ngợi hay bị phê phán mà tự tin với bản thân và công trình của bản thân, không để ý đến sự đánh giá của người khác. Động từ “chẳng” đặt ở câu cuối của bài thơ, thể hiện sự mạnh mẽ và dứt khoát, không màng đến công danh tiền tài hay địa vị. Điều này cũng thể hiện sự độc lập tinh thần và ý chí kiên định của tác giả trong việc theo đuổi sứ mệnh của mình, sứ mệnh hòa làm một với thiên nhiên. Trong bài thơ "Bảo Kính Cảnh Giới số 28" của Nguyễn Trãi, từng câu văn đã được xây dựng một cách tinh tế, lôi cuốn và sâu sắc. Từ hình ảnh đến tư duy, tác phẩm đã thể hiện một cách rõ ràng nhất sự đẹp và ý nghĩa của quê hương, cuộc sống và ý thức con người. Cùng với sự kết hợp khéo léo giữa thiên nhiên, tâm trạng con người và phản ánh triết lý sâu sắc về cuộc sống đã tạo nên một bức tranh văn học tinh tế và đầy ý nghĩa. Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Trãi đã vận dụng thuần thục ngôn từ và hình ảnh sinh động, thổi vào lòng độc giả làn gió mới về giá trị thực sự của cuộc sống và sức mạnh của ý chí con người. Từng câu văn đều như những bức tranh sống động, lấp lánh ánh sáng của tri thức và tình cảm. Bài thơ không chỉ là một hiện thân của vẻ đẹp nghệ thuật mà còn là một cẩm nang triết lý về cuộc sống, khơi dậy tinh thần và sự suy ngẫm sâu xa trong lòng người đọc, quả thật mà một người nghệ sĩ chân chính.

“Thơ ấy là gốc ở tình, lời ở ngọn, hoa ở âm thanh và quả ở ý nghĩa” (Bạch Cư Dị)

icon-date
Xuất bản : 25/03/2024 - Cập nhật : 26/03/2024