Đáp án và lời giải chính xác cho câu hỏi: “Nêu đặc điểm chính của tầng đối lưu và tầng bình lưu” cùng với kiến thức mở rộng do Top lời giải tổng hợp, biên soạn về Tầng đối lưu là tài liệu học tập bổ ích dành cho thầy cô và các bạn học sinh tham khảo.
Đặc điểm chính của tầng đối lưu và tầng bình lưu là:
- Tầng đối lưu: nhiệt độ giảm theo độ cao (trung bình cử lên cao 100 m, nhiệt độ lại giảm 0,6 C), không khí luôn luôn chuyển động theo chiều thẳng đứng. Tầng đối lưu là nơi sinh ra các hiện tượng thời tiết như mây, mua, sấm sét,…
- Tầng bình lưu: nhiệt độ tăng theo độ cao, không khí luôn luôn chuyển động ngang. Lớp ôzôn trong tầng này giúp hấp thụ phần lớn bức xạ cực tím, bảo vệ sự sống trên Trái Đất.
- Các tầng cao khác: càng lên cao không khí càng loãng.
Cùng Top lời giải trang bị thêm nhiều kiến thức bổ ích cho mình thông qua bài tìm hiểu về Tầng đối lưu dưới đây nhé
Tầng khí quyển sát với mặt đất có độ cao từ 8 - 17 km (5 - 11 dặm). Đây là tầng khí quyển quen thuộc nhất với chúng ta. Mọi hiện tượng thời tiết tác động trực tiếp tới chúng ta (gió, mưa, bão…) hầu như đều xảy ra trong tầng đối lưu. Do gần Trái Đất nhất, tầng đối lưu cũng có mật độ không khí dày đặc nhất (chiếm hơn 50% lượng khí quyển của toàn Trái Đất). Được phản chiếu nhiệt từ vỏ Trái Đất, đây cũng là tầng khí quyển “ấm áp” nhất.
- Tầng đối lưu bắt đầu từ bề mặt Trái Đất mở rộng ra đến cao độ 20 km (12 dặm) ở các vùng nhiệt đới, giảm tới khoảng 11 km ở các vĩ độ trung bình, ít hơn 7 km (4 dặm) ở các vùng cực về mùa hè còn trong mùa đông là không rõ ràng. Lớp khí quyển này chiếm khoảng 80% tổng khối lượng của toàn bộ khí quyển, gần như toàn bộ hơi nước và xon khí (aerosol). Trong khu vực tầng đối lưu thì không khí liên tục luân chuyển và tầng này là tầng có mật độ không khí lớn nhất của khí quyển Trái Đất. Nitơ và ôxy là các chất khí chủ yếu có mặt trong tầng này. Tầng đối lưu nằm ngay phía dưới tầng bình lưu. Phần thấp nhất của tầng đối lưu, nơi ma sát với bề mặt Trái Đất ảnh hưởng tới luồng không khí, là lớp ranh giới hành tinh. Lớp này thông thường chỉ dày từ vài trăm mét tới 2 km (1,2 dặm), phụ thuộc vào địa mạo và thời gian của ngày. Ranh giới giữa tầng đối lưu và tầng bình lưu, được gọi là khoảng lặng đối lưu, là nghịch chuyển nhiệt độ
- Tầng đối lưu được chia thành 6 khu vực luồng luân chuyển theo đới, gọi là các quyển hoàn lưu. Các quyển hoàn lưu này chịu trách nhiệm cho hoàn lưu khí quyển và tạo ra các hướng gió thịnh hành.
- Các quyển hoàn lưu lớn trong tầng đối lưu.
- Nguyên nhân các biến đổi nhiệt độ trong tầng đối lưu là do nhiệt độ được xác định bởi bức xạ nhiệt từ mặt đất ngược trở lại không khí. Mặc dù tia nắng Mặt Trời tiếp xúc với phần không khí ở trên cao trước, nhưng không khí khá trong suốt nghĩa là nó hấp thụ rất ít năng lượng của tia nắng. Đa phần năng lượng Mặt Trời rơi xuống mặt đất, tại đây, nó bị hấp thụ mạnh bởi mặt đất, và làm mặt đất nóng lên (nóng hơn không khí trên cao). Mặt đất nóng truyền nhiệt trực tiếp cho lớp không khí gần mặt đất; không khí gần mặt đất nóng lên và nở ra, nhẹ hơn phần không khí lạnh ở trên và bay lên cao nhờ lực đẩy Ácsimét. Khi không khí nóng bay lên cao, nó giãn nở đoạn nhiệt nghĩa là thể tích tăng và nhiệt độ giảm (giống như cách hoạt động của một số tủ lạnh, máy điều hòa). Càng lên cao, không khí càng nguội dần. Khi ra xa khỏi bề mặt Trái Đất thì nhiệt đối lưu có các hiệu ứng nhỏ hơn và không khí lạnh hơn. Ở các cao độ lớn hơn thì không khí loãng hơn và giữ nhiệt kém hơn, khiến cho nhiệt bị tản đi hết. Cứ mỗi khi độ cao tăng lên 1.000 mét thì nhiệt độ lại giảm trung bình khoảng 6,5°C.
- Mặc dù việc nhiệt độ giảm theo độ cao là xu hướng chung trong tầng đối lưu, thực tế đôi khi có ngoại lệ, gọi là hiện tượng nghịch nhiệt. Ví dụ ở châu Nam Cực, nhiệt độ tăng khi lên cao. Một ví dụ khác, hàng năm, xung quanh Hà Nội, Việt Nam, về đầu mùa đông có những đợt nghịch nhiệt về ban đêm, thường xảy ra vài ngày sau khi gió mùa đông bắc tràn về và kéo dài cho đến khi gió thịnh hành chuyển sang hướng đông nam và lặp lại khi có đợt gió mùa mới. Trong điều kiện nghịch nhiệt, khí thải từ hoạt động công nghiệp và nông nghiệp bị ứ đọng ở tầng thấp, không tỏa đi được, do chúng lạnh và nặng hơn các lớp khí bên trên.
- Đỉnh tầng đối lưu đánh dấu giới hạn của tầng đối lưu và nó được nối tiếp bằng tầng bình lưu. Nhiệt độ ở phía trên đỉnh tầng đối lưu lại tăng lên chậm cho tới cao độ khoảng 50 km. Nói chung, các máy bay phản lực bay ở gần phần trên cùng của tầng đối lưu. Hiệu ứng nhà kính cũng diễn ra trong lớp trên cùng tầng đối lưu.
Trước hết, cần chỉ ra rằng khí quyển có các tầng khác nhau. Tầng thấp nhất là tầng đối lưu và ngay phía trên là tầng bình lưu. Do các yếu tố khác nhau, chúng phải được phân loại thành các lớp khác nhau. Và đó là mỗi nơi có những đặc điểm và biến số khí hậu khác nhau. Các áp suất không khí, nhiệt độ, độ dốc nhiệt độ, tốc độ gió và hướng gió chúng khác nhau ở cả hai máy ảnh.
Giới hạn của các giao dịch sẽ là và tầng đối lưu được gọi là nhiệt đới và nó không phải là một vùng cố định. Nó thường được tìm thấy ở khoảng cách 8-14 km tính từ mực nước biển và là một đường đẳng nhiệt. Điều này có nghĩa rằng đó là khu vực có nhiệt độ ổn định. Các kiểu thời tiết như chúng ta biết, mặt trời xuất hiện trong tầng đối lưu vì không khí gần mặt đất ấm hơn không khí ở độ cao lớn hơn. Điều này xảy ra do đất hấp thụ nhiệt từ mặt trời tỏa ra. Với độ dốc nhiệt độ âm này so với độ cao, không khí nóng có thể bốc lên và tạo ra dòng đối lưu. Các dòng đối lưu này là thứ tạo ra chế độ gió và mây.
Ngược lại, ở tầng bình lưu, tầng ôzôn có nhiệm vụ hấp thụ ánh sáng mặt trời ban ngày từ nhiệt lượng xuống. Ở đây nhiệt độ tăng dần theo độ cao. Tầng bình lưu cao khoảng 50 km. Do chất lượng không khí ấm, độ ẩm có xu hướng tăng lên và không khí lạnh đi xuống, gió và mây mưa hình thành ở tầng đối lưu chứ không phải ở tầng bình lưu. Ở lớp này, các điều kiện ổn định hơn vì áp suất không khí thấp hơn nhiều và không khí ấm ngăn cản sự hình thành các dòng đối lưu. Thực tế không có nhiễu động và gió ổn định. Nó thổi theo hướng ổn định và nằm ngang, và do đó máy bay thương mại bay ở tầng bình lưu thấp hơn để tránh nhiễu động này.
Tầng đối lưu chứa xung quanh 75% lượng khí trong khí quyển, trong khi tầng bình lưu chỉ có 19%
- Khí quyển là nguồn cung cấp oxy (cần thiết cho sự sống trên trái đất), cung cấp CO2 (cần thiết cho quá trình quang hợp của thực vật), cung cấp nitơ cho vi khuẩn cố định nitơ và các nhà máy sản xuất amôniac để tạo các hợp chất chứa nitơ cần cho sự sống. Hơn nữa, khí quyển là phương tiện vận chuyển nước hết sức quan trọng từ các đại dương tới đất liền như một phần của chu trình tuần hoàn nước.
- Khí quyển có nhiệm vụ duy trì và bảo vệ sự sống trên trái đất. Nhờ có khí quyển hấp thụ mà hầu hết các tia vũ trụ và phần lớn bức xạ điện từ của mặt trời không tới được mặt đất. Khí quyển chỉ truyền các bức xạ cận cực tím, cận hồng ngoại (3000 - 2500 nm) và các sóng rađi (0,1 - 40 micron), đồng thời ngăn cản bức xạ cực tím có tính chất hủy hoại mô (các bức xạ dưới 300 nm).