Trả lời:
* Sự thành lập của nhà Trần:
- Cuối thế kỉ XII, nhà Lý ngày càng suy yếu, phải dựa vào thế lực họ Trần trong triều để duy trì quyền lực.
- Năm 1224, vua Lý Huệ Tông xuất gia đi tu, truyền ngôi cho Lý Chiêu Hoàng.
- Năm 1226, dưới sự sắp xếp của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, nhà Trần được thành lập.
* Vai trò của Trần Thủ Độ: Trần Thủ Độ là một đại công thần, người khởi dựng và đã dùng trọn đời mình để bảo vệ sự tồn tại của vương triều Trần. Nhà Trần lấy được thiên hạ đều nhờ vào sức của ông. Nếu không có Trần Thủ Độ thì cũng không có nhà Trần
Kiến thức vận dụng về Thái sư Trần Thủ Độ
Trần Thủ Độ (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi Trung Vũ đại vương (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện lật đổ nhà Lý, lập nên nhà Trần, thu phục các thế lực người Man làm phản loạn và trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất
Năm 1209, trong nước có loạn Quách Bốc, Lý Cao Tông phải chạy ra khỏi kinh sư, Lý Huệ Tông Lý Hạo Sảm – khi ấy đang là Thái tử phải chạy đến nương nhờ Trần Lý. Họ Trần dẫn quân về triều dẹp loạn, rước vua về kinh sư, nhân đó mà khuynh loát triều đình. Với chức vụ Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Thủ Độ đã sắp xếp cho con người cháu họ của mình lấy Lý Chiêu Hoàng, sau đó Nữ hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Thái Tông (Trần Cảnh), lập ra triều Trần.
Trần Thủ Độ một tay cáng đáng trọng sự, giúp Trần Thái Tông bình phục được giặc giã trong nước và chỉnh đốn lại mọi việc, làm cho nước Đại Việt bấy giờ được cường thịnh, có thể chống cự với Mông Cổ. Ông được nhiều nhà sử học qua các thời đại thừa nhận và đánh giá cao về tài năng, khả năng chính trị quyết đoán hiệu quả, nhưng cũng vì thế có rất nhiều sự phê bình tiêu cực về nhân phẩm của ông. Nhiều ý kiến cho rằng ông đã vi phạm các chuẩn mực đạo đức do ông đã bức tử Lý Huệ Tông cũng như cưới Huệ hậu (chị họ của ông) làm phu nhân; ép Trần Thái Tông lấy vợ của anh trai khi đang mang thai 3 tháng và nghi vấn tàn sát tôn tộc nhà Lý
Trần Thủ Độ là nhân vật trụ cột của triều Trần. Ông là công thần sáng lập triều Trần và là người thực tế nắm quyền lãnh đạo đất nước những năm đầu triều Trần, khoảng gần 40 năm (1226 – 1264). Sử chép: “Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua”.
Là người có bản lĩnh và cá tính khác thường, Trần Thủ Độ xử lý việc gì cũng thẳng thắn, thường quyết đoán theo ý chí của mình, ít chịu để cho tình cảm sai khiến. Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Thủ Độ gắn liền với nghiệp đế của họ Trần. Hiệu quả lịch sử của những việc mà ông làm là đã đưa nước nhà qua khỏi cuộc suy vong cuối triều Lý và khởi dựng nên thời đại Đông A rực rỡ với những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm và những thành tựu xây dựng đất nước.
Ông là đạo diễn cuộc chính biến tháng Chạp năm Ất Dậu (tức tháng 1-1226), đưa Trần Cảnh lên ngôi thay Lý Chiêu Hoàng. Làm cuộc đảo chính thay đổi triều đại mà không xảy ra đổ máu và đảo lộn lớn trong nước, Trần Thủ Độ tỏ ra là một nhà chính trị sáng suốt, khôn khéo.
Ông là một nhà lãnh đạo tài giỏi và tận tụy chăm lo việc nước. Phàm công việc gì làm cho đế nghiệp Đông A vững mạnh, ông đều cương quyết làm bằng được. Năm 70 tuổi, trước lúc chết 5 tháng, sử còn chép việc ông đi tuần ở vùng biên giới Lạng Sơn. “Thủ Độ tuy làm tể tướng mà phàm công việc, không việc gì không để ý. Vì thế đã giúp nên vương nghiệp, giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất”.
Trần Thủ Độ đến những phút giây cần chiến đấu hung tàn nhất, đối mặt với đội quân được mệnh danh là: “ Đi đến đâu cỏ không mọc đến đó” nhưng vẫn đầy hiên ngang cất lên câu nói đầu thần chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo. Cho đến những phút giây phải đối mặt với gương giáo của giặc, phải đứng giữa ranh giới sống và chết thì điều mà ông quan tâm nhất không phải là mạng sống của mình mà chính là mệnh của thiên tử, mệnh của giang sơn, gấm vóc nước nhà. Dù đầu ông có rơi xuống đất, dù có tắt hơi thở cuối cùng thì bệ hạ cũng đừng lo lắng gì, mọi chuyện cũng sẽ ổn thôi. Câu nói ấy vừa thể hiện dũng khí bền bỉ, cũng có thể vừa là lời an ủi và động viên, dù cho đầu có rơi, máu có chảy nhưng tấm lòng thì mãi chỉ có một.
Một câu nói nhưng có thể làm yên lòng quân còn hơn ngàn tướng lĩnh, đôi khi thua không phải vì không đủ tài, thua không phải vì không đủ quân số mà thua có thể bởi không có nhuệ khí, không thắng nối nhuệ khí của đối phương. Ông không cam tâm, dù đầu có rơi vẫn giữ sự kiên quyết và hiên ngang của mình đến tận cuối cùng.