Nhà Hậu Lê (1427-1789) do Lê Thái Tổ lập ra, được phân biệt với nhà Tiền Lê (980-1009) do Lê Đại Hành lập ra cuối thế kỷ 10. Nhà Hậu Lê gồm có 2 giai đoạn:
- Nhà Lê sơ (1428-1527): kéo dài 100 năm, bắt đầu từ khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi gạt bỏ vua bù nhìn Trần Cảo, tự làm vua, lập ra triều đại mới và kết thúc khi quyền thần Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàng lập ra nhà Mạc.
- Nhà Lê trung hưng(1533-1789): kéo dài 256 năm, bắt đầu từ khi Thượng tướng quân Nguyễn Kim lập tông thất Lê Duy Ninh lên ngôi, tức Lê Trang Tông tại Ai Lao để khôi phục nhà Hậu Lê; kết thúc khi Lê Chiêu Thống chạy sang lưu vong tại Trung Quốc dưới thời Thanh Cao Tông.
Cách gọi nhà Hậu Lê bao gồm cả hai giai đoạn Lê sơ và Lê trung hưng. Đặc biệt, thời Lê Trung hưng tuy kéo dài nhưng các Hoàng đế nhà Lê mất thực quyền, chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Thời kỳ đầu gọi là Nam Bắc triều, nhà Lê và nhà Mạc chia đôi nước Đại Việt.
- Tháng 4 năm 1428, sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, khôi phục quốc hiệu Đại Việt, lập ra nhà Lê Sơ, đóng đô ở Thăng Long
- Nhà Lê sơ tiếp tục củng cố chế độ phong kiến tập quyền:
+ Chính quyền được hoàn thiện dần từ trung ương tới địa phương, hoàng đế trực tiếp nắm mọi quyền hành.
+ Cả nước có 13 Đạo thừa tuyên và một phủ Trung Đô, quan đứng đầu địa phương được thay bằng ba ti phụ trách ba lĩnh vực quân sự; luật pháp; hành chính, hộ tịch, thuế khoá. Cấp đơn vị hành chính nhỏ nhất là xã.
+ Ban hành Quốc triều hình luật.
+ Chú trọng xây dựng quân đội mạnh, tiếp tục chính sách "ngụ binh ư nông".
- Nông nghiệp
Hai mươi năm dưới ách thống trị của nhà Minh, nước ta lâm vào tình trạng xóm làng điêu tàn, ruộng đồng bỏ hoang, đời sống nhân dân cực khổ, nhiều người phải phiêu tán.
Cho 25 vạn lính về quê làm ruộng. Kêu gọi nhân dân phiêu tán về quê làm ruộng.
Đặt cơ quan chuyên trách nông nghiệp như Khuyến nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ. Chia ruộng đất theo phép quân điền.
Cấm giết trâu bò, cấm điều phu vào lúc gặt, cấy.
Nông nghiệp nhanh chóng phục hồi và phát triển.
- Thủ công nghiệp
Các ngành nghề thủ công truyền thống ở các làng, xã phát triển: Kéo tơ, dệt lụa, đúc đồng…
Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp ra đời: Bát Tràng làm gốm; Làng Vân Chàng rèn sắt…
Các xưởng thủ công do nhà nước quản lý (Cục bách tác)
Nghề khai mỏ được đẩy mạnh: Mỏ đồng, vàng…
- Thương nghiệp
Trong nước: Khuyến khích họp chợ, mở chợ mới. Đúc tiền đồng...
Ngoài nước: Duy trì việc buôn bán với nước ngoài. Một số của khẩu kiểm soát chặt chẽ.
Có hai giai cấp chính:
Giai cấp địa chủ phong kiến (vua, quan và địa chủ): sống xa hoa sung sướng, nắm quyền thống trị đất nước.
Giai cấp nông dân: đông, làm thuê và nộp tô thuế, đi phu dịch cho nhà nước => Cuộc sống nghèo khổ nhất.
Tầng lớp thị dân, thương nhân, thợ thủ công ngày càng đông: phải nộp thuế cho nhà nước, không được coi trọng.
Nô tì số lượng giảm dần.
Nhằm:
Tăng nhân khẩu lao động.
Thỏa mãn phần nào yêu cầu của nhân dân, giảm bớt bất công
=> Nền độc lập và thống nhất của đất nước được củng cố.
Dựng lại Quốc Tử Giám, mở nhiều trường học, mở khoa thi.
Nội dung học tập thi cử là sách của đạo nho.
Một năm tổ chức ba kì thi: Hương – Hội - Đình
=> Giáo dục ,thi cử chặt chẽ, thường xuyên hơn,tuyển chọn được nhiều nhân tài.
Văn học
Có nội dung yêu nước, thể hiện niềm tự hào dân tộc, khí phách anh hùng
Văn thơ chữ Hán: Nguyễn Trãi có Quân Trung Từ Mệnh Tập; Bình Ngô Đại Cáo
Lê Thánh Tông với Quỳnh Uyển cửu ca.
Văn thơ chữ Nôm: Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi.
Hồng Đức Quốc Âm thi tập của Lê Thánh Tông.
Khoa học
- Sử học : Đại Việt sử kí, Đại Việt sử kí toàn thư, Lam Sơn thực lục, ..
- Địa lí : Hồng Đức bản đồ, Dư địa chi, An Nam hình thắng đồ,..
- Y học : Bản thảo thực vật toát yếu.
- Toán học : Đại thành toán pháp, Lập thành toán pháp.
Nghệ thuật
- Nghệ thuật sân khấu : chèo, tuồng, ca hát được phục hồi và phát triển.
- Nghệ thuật điêu khắc đặc sắc, kĩ thuật điêu luyện : Cung điện Lam Kinh, Bia Vĩnh Lăng,...