Tô Hoài là một tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị như: Dế Mèn phiêu lưu ký, Giăng Thề, Quê nghèo,...Tập truyện Tây Bắc cũng là một trong những thành tựu vô cùng xuất sắc, một lần nữa khẳng định tên tuổi của ông trên văn đàn. Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" trích trong tập “Truyện Tây Bắc” đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng với giá trị nhân văn sâu sắc. Để giúp các bạn hiểu hơn về tác phẩm "Vợ chồng A Phủ", Toploigiai đã mang tới cho các bạn những mẫu Liên hệ mở rộng bài "Vợ chồng A Phủ", mời các bạn cùng tham khảo.
Tô Hoài là một trong số những nhà văn lớn, có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại với một phong cách nghệ thuật rất riêng, độc đáo và hấp dẫn. Và có thể nói, Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của ông. Đọc Vợ chồng A Phủ, người đọc sẽ không thể nào quên hình ảnh của nhân vật Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ. Đồng thời, thông qua nhân vật Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ cùng tâm trạng của chị em Liên đợi tàu trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, chúng ta có thêm cách cảm nhận sâu sắc hơn về tình cảm của nhà văn đối với người lao động trong xã hội cũ.
Như chúng ta đã biết, Mị là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra và cũng kể từ ngày về làm dâu, Mị như mất hết đi sức sống, tê liệt hoàn toàn về mặt cảm xúc. Nhưng khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng trong đêm, dường như đã khiến Mị thay đổi và sức sống tiềm tàng trong Mị lại trỗi dậy.
Thoạt đầu, khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn “thản nhiên ngồi sưởi lửa”. Mị vô tâm, thản nhiên như thế cũng dễ hiểu thôi, bởi trong nhà Pá Trá từ trước đến nay điều đó đâu có gì lạ lẫm. Những tưởng, Mị vẫn sẽ thản nhiên ngồi sưởi lửa như thế, nhưng không, khi nhìn thấy “dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen của A phủ” Mị đã hoàn toàn thay đổi. Giọt nước mắt ấy của A Phủ đã đánh thức trong Mị bao nỗi niềm xúc cảm. Mị thấy thương, thấy đồng cảm với A Phủ và thương cho chính cả số phận của mình nữa. Để rồi, Mị nghĩ và Mị thấy “chúng nó thật ác”.
Có lẽ, trong cuộc đời mình, suốt trong những tháng ngày sống kiếp trâu ngựa, Mị chưa bao giờ biết yêu, biết ghét nhưng giờ đây, Mị cảm nhận thấy nhà Pá Tra thật ác, rồi Mị nảy ra ý định cứu A Phủ, nhưng lại sợ “Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể đến một lúc nào, biết đâu A Sử chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liến phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế trong tình cảnh này, làm sao Mị không thấy sợ…” . Mị sợ cũng là điều dễ hiểu, nhưng rồi đến cùng, tình thương đã lấn át mọi nỗi sợ hãi và Mị quyết định giải cứu A Phủ, cũng như quyết định bỏ trốn cùng A Phủ. Mị cắt đứt sợi dây để giải cứu cho A Phủ và cũng chính là giải cứu cho cuộc sống tù túng, bị giam hãm của mình. Hành động ấy của Mị không phải là bộc phát mà là một tất yếu, phù hợp với logic phát triển tâm lí của nhân vật. Đồng thời, qua việc miêu tả Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ, chúng ta cảm nhận được tài năng miêu tả tâm lí, cách sử dụng từ ngữ độc đáo và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn Tô Hoài đối với những người lao động nghèo khổ, bị áp bức trong xã hội xưa.
Thêm vào đó, từ việc phân tích nhân vật Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ, chúng ta nhớ tới hình ảnh của chị em Liên trong cảnh đợi tàu ở truyện ngắn Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam. Có lẽ, với chị em Liên nói riêng, những người dân nơi phố huyện nghèo nói chung, đợi chuyến tàu đi qua mỗi đêm đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Đêm nào cũng vậy, chị em Liên cũng thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua với một tâm trạng háo hức bởi lẽ, đấy là chuyến tàu từ Hà Nội về. Chuyến tàu ấy gợi lại trong chị em Liên biết bao kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ nhưng hơn hết còn bởi, chuyến tàu ấy đi qua và “mang theo một thứ ánh sáng khác”. Đó là ánh sáng của những ngày mai tươi sáng, của những điều tốt đẹp mà những người dân phố huyện và cả chị em Liên hằng ao ước. Chính vì thế, tâm trạng háo hức đợi tàu mỗi đêm của chị em Liên xét đến cùng là niềm khao khát về một thế giới mới, một cuộc sống mới và về một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Đồng thời, qua cảnh đợi tàu, chúng ta nhận thấy tấm lòng yêu thương và sự trân trọng của nhà văn Thạch Lam với những khát khao bình dị, chính đáng của những người dân nơi phố huyện nghèo.
Như vậy, ta thấy rằng cả nhà văn Tô Hoài và nhà văn Thạch Lam đều viết rất hay, rất độc đáo và phản ánh một cách chân thực về cuộc sống của những người lao động khốn khổ trong xã hội. Đồng thời, viết về họ, cả hai nhà văn đều thể hiện cái nhìn đồng cảm sâu sắc và sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp tâm hồn và những khát khao, những ước mơ tươi sáng của họ. Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy, mỗi nhà văn cũng có những điểm khác nhau, tạo nên nét độc đáo riêng trong sáng tác của họ. Nếu như trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn Thạch Lam dành cái nhìn thương cảm, xót xa cho những người dân phố huyện nghèo, sống mòn mỏi, khổ cực và luôn chờ đợi cuộc sống khác từ những chuyến tàu đêm thì với nhà văn Tô Hoài, ông đã khám phá và khẳng định sức sống tiềm tàng, khả năng phản kháng và sự đấu tranh để tự giải phóng mình, hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn của những người lao động nghèo khổ.
Sở dĩ, cả hai nhà văn đều có những điểm gặp gỡ nhau trong phản ánh hiện thực và thể hiện tình cảm với các nhân vật bởi cả hai đều là những nhà văn có tấm lòng nhân đạo và tình cảm yêu thương con người sâu sắc. Song, ở hai ông vẫn có những điểm khác biệt. Sự khác biệt ấy xuất phát từ đặc trưng của văn học – văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, nó không cho phép sự lặp lại. Thêm vào đó, mỗi nhà văn có một phong cách sáng tạo nghệ thuật khác nhau, tạo nên dấu ấn riêng của mỗi người.
Tóm lại, tuy cách viết khác nhau và ở hai giai đoạn văn học khác nhau, nhưng qua cách xây dựng tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ của Tô Hoài và tâm trạng chị em Liên trong cảnh đợi tàu của Thạch Lam, người đọc hiểu hơn về tấm lòng trân trọng của nhà văn với ước mong giản dị, cao đẹp của con người trong xã hội xưa.
>>> Tham khảo: Phân tích hoàn cảnh sáng tác Vợ chồng A Phủ
Thưởng thức tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Chí Phèo của Nam Cao. Người đọc chẳng thể nào quên được hai nhân vật chính, linh hồn của câu chuyện, đó là Mị và Chí Phèo. Nhất là sự hồi sinh nhân tính trong tình huống truyện của họ.
Người ta thường nói, văn chương là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu. Và Tô Hoài, Nam Cao đã gặp gỡ, đồng cảm về tư tưởng, cốt cách. Đó cũng chính là tiếng lòng ấp ủ của nhà văn dành cho nhân vật của mình. Dẫu trước đó, họ sống dưới vực thẳm của xã hội, nhưng chỉ cần tình người được đặt đúng chỗ. Thì bao nhiêu vẻ đẹp của tâm hồn đã được hồi sinh.
Nếu như Mị hồi sinh nhân cách trong đêm tình mùa xuân tràn ngập yêu thương. Thì Chí lại thức tỉnh nhân cách sau đêm gặp Thị Nở tại vườn chuối, với bát cháo hành ấm áp. Nếu như Mị chịu sự tác động của cảnh vật, sự vật để hồi tỉnh. Thì Chí lại nhờ vào tình người để đánh thức phần “người” đã ngủ quên trong anh bấy lâu.
Gấp lại truyên ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Chí Phèo của Nam Cao. Ta thấy được giá trị nhân văn, nhân đạo mà tác giả muốn gửi gắm. Đọc vợ chồng A Phủ để liên hệ Chí Phèo và ngược lại. Dẫu cuộc sống, hoàn cảnh của hai nhân vật khác nhau. Nhưng sự hồi sinh về nhân cách lại mang vẻ đẹp tương đối giống nhau. Phải chăng, đó là tiếng lòng đầy thương cảm của tác giả dành cho những số phận hẩm hiu.
Con người nhỏ bé cùng số kiếp nhọc nhằn, họ vẫn đang “vật lộn” với những lo toan riêng trong đời sống chung, họ lẩn khuất khắp mọi nơi không chỉ trên đất ta. Và rồi “nhà văn tồn tại trên đời trước hết là để làm công việc như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường … để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” - Nguyễn Minh Châu. Với Tô Hoài, qua những tác phẩm của mình, ông đã làm tròn thiên chức ấy, đặc biệt là với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Ở đó ta sẽ thấy một cô Mị - cái mảng sống im lìm, tối tăm, cực nhọc được phơi bày cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà quan thống lí: “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. Năm tháng trôi đi, người con dâu gạt nợ sống trong nhà thống lí Pá Tra là một chuỗi dài cực nhọc, vất vả nối tiếp nhau, là sự bóc lột và hành hạ mà Mị phải chịu đựng: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau tiếp nhau vẽ ra trước mắt, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại… Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm cả ngày”. Thêm vào sự đọa đày về thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần. Mị bị ràng buộc trong ý nghĩ: bố con Pá Tra đã “trình ma” mình là người nhà nó rồi, thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thôi! Mê tín, thần quyền đã hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị, nó là thứ “thuốc phiện của tinh thần” đối với Mị, với những người dân bé mọn. Mãi về sau, khi dân mình đã giành được độc lập, chẳng còn thực dân hay chúa đất, một cuộc sống mới sẽ mở ra với đầy hứa hẹn và hi vọng. Nhưng trong chính cuộc sống ta hằng mơ ước đó, Nguyễn Minh Châu lại tìm thấy những số kiếp nhọc nhằn. Một người đàn bà hàng chài cùng cuộc sống bấp bênh; khốn khó; tệ nạn xã hội: rượu chè, bạo hành gia đình; thậm chí còn là sự bất lực của công lí… Chồng chất, ngợp thở, thắt lòng! Thời đại nào cũng vậy! Con người sẽ luôn chịu sự ảnh hưởng của xã hội, chỉ khác là họ ôm những nỗi đau riêng của thời đại đó mà thôi!
1. Nhìn lại toàn bộ cuộc đời văn học của nhà văn Tô Hoài, Giáo sư Phong Lê khẳng định: “Tô Hoài là một trong những tác gia lớn nhất của thế kỉ 20. Ông thuộc thế hệ 20, từ năm 1920 ngược về trước. Đó là thế hệ vàng của văn chương hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất của văn họ thế kỉ 20 – làm nên mùa màng 1930-1945, cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Huy Cận. Ông cũng là người hiếm hoi nhất còn lại của thế hệ ấy, cùng với nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh”.
2. “Ông là cây đại thụ cuối cùng của lớp tác giả văn xuôi thời kì Cách Mạng.” (Hà Minh Đức)
3. “Bản chất của văn chương Tô Hoài là phong cách, bút pháp đậm đà bản sắc dân tộc. Phẩm chất ấy là sự tích tụ của cả một đời gắn bó với đất nước và nhiều miền quê hương, trân trọng và yêu thương những con người lao động mang tâm hồn và tính cách của người Việt Nam” (Hà Minh Đức)
4. “Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi, trên con đường đưa họ đến với thế giới động tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những miền đất mới, đến với con người đời dài rộng khi đã trưởng thành” – Phan Anh Dũng
5. “Muốn viết văn, điều quan trọng nhất là chi tiết . Mà chi tiết thì không thể phịa ra được. Phải chịu khó quan sát, ghi chép, đọc và tiếp xúc càng nhiều càng tốt” – Nhà văn Tô Hoài
6. "Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi". (Tô Hoài)
7. Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi. (Tô Hoài)
8. “Thật khó để tìm được một nhà văn thứ hai vừa có thể miêu tả chân thật, tinh tế những cung bậc cảm xúc của cô Mị yêu sống nhưng bị giam cầm trong cảnh tù túng của “Vợ chồng A Phủ” (Phan Anh Dũng)
9. “Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi.” (Tô Hoài)
10. "Tô Hoài là một nhà văn lớn của Văn học Việt Nam hiện đại, người có 95 năm tuổi đời nhưng đã dành hơn 70 năm đóng góp cho văn học. Ông là nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có khối lượng tác phẩm đồ sộ". (Phạm Xuân Nguyên - Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội)
11. “ Có những nhà văn, nhà thơ làm vinh dự cho chữ Hán, làm vinh dự chữ Nôm. Anh Tô Hoài, cùng Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,... làm vinh dự cho chữ quốc ngữ. Tôi được gần các thế hệ đi trước , càng hiểu giá trị của những giây phút sống bên cạnh họ, kể cả khi các anh im lặng” – Nhà thơ Hữu Thỉnh.
12. “ [...] Hơi thở cuộc sống luôn đầy ắp và hiện rõ trên từng trang viết của nhà văn Tô Hoài, đưa ông cùng nhiều nhà văn, nhà thơ tên tuổi khác làm nên “mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học Việt Nam thế kỉ 20”. Ông đã ra đi, nhưng trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ, “chú dề mèn” sẽ trẻ mãi với thời gian” – Trích bài viết “ Nhà văn Tô Hoài nặng lòng với những trang văn về Tây Bắc”, Báo Mới.
>>> Tham khảo: Tóm tắt tác giả, tác phẩm Vợ chồng A Phủ
---------------------------------
Trên đây Toploigiai đã mang tới cho các bạn những mẫu Liên hệ mở rộng bài "Vợ chồng A Phủ". Hi vọng những kiến thức chúng tôi cung cấp sẽ giúp các bạn học tập tốt hơn. Mời các bạn đến với câu hỏi tiếp theo.