10 nữ anh hùng dân tộc Việt Nam: Trưng Trắc và Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh (Bà Triệu), Bùi Thị Xuân, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Định, Đinh Thị Vân, Võ Thị Thắng, Nguyễn Thị Út, Nguyễn Thị Chiên sẽ giúp các bạn hiểu thêm về những vị anh hùng quả cảm của dân tộc ta.
Trưng Trắc và Trưng Nhị (?-43): Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị là tấm gương điển hình nhất về hình mẫu của người phụ nữ Việt Nam anh hùng. Ngay từ thuở đầu của lịch sử, Hai Bà Trưng đã vượt qua mọi định kiến hà khắc về phụ nữ của lễ giáo phong kiến để đứng lên cầm vũ khí, kéo quân ra trận, đánh đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập. Ngay sau khi phất cờ khởi nghĩa, Hai Bà đánh vào Luy Lâu, khiến viên Thái thú Tô Định phải "cắt tóc, cạo râu, vứt bỏ ấn tín, trà trộn vào đám loạn quân tháo chạy về nước". Đúng như lời tuyên thệ của Hai Bà trước khi khởi nghĩa: Một xin rửa sạch nước thù / Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng.
Khi nhà Ngô xâm lược đất nước gây nên cảnh đau thương cho dân chúng, khoảng 19 tuổi Triệu Thị Trinh bỏ nhà vào núi xây dựng căn cứ, chiêu mộ nghĩa quân đánh giặc. Khi anh trai nhắn về nhà chồng, bà đã trả lời tỏ rõ khí phách của mình: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng là tì thiếp người ta”. Hiện nay Lăng và đền thờ Bà vẫn còn mãi với thời gian tại huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá là di tích lịch sử quan trọng của quốc gia, là bằng chứng về niềm tự hào một người phụ nữ liệt oanh của dân tộc Việt Nam.
Bùi Thị Xuân (1752 - 1802) là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, là vợ Thiếu phó Trần Quang Diệu và là một Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Bùi Thị Xuân sinh ra trong một gia đình khá giả, sớm được học văn và học võ. Nghe kể chuyện bà Trưng bà Triệu cỡi voi đánh giặc, Bùi Thị Xuân náo nức muốn được theo gương bà Triệu bà Trưng, luyện đánh voi ra trận.
15 tuổi, Bùi Thị Xuân tài nghệ đã điêu luyện. 20 tuổi, Bùi Thị Xuân dùng kiếm giải nguy cho Trần Quang Diệu bị một con hổ dữ tấn công, cũng từ lần gặp này mà hai người trở thành vợ chồng, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. Với tài nghệ cộng và lòng dũng cảm, Bùi Thị Xuân cùng chồng nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc dựng nghiệp của nhà Tây Sơn ngay từ buổi đầu. Bà đã lập nhiều chiến công hiển hách trên các chiến trường, khiến quân Nguyễn Ánh khiếp sợ. Năm 1802, bà và chồng bị bắt và bị hành quyết, năm đó bà 45 tuổi. Bùi Thị Xuân được tôn vinh và ghi nhận là một anh hùng quốc gia. Hiện nay, tượng đài của bà đã được xây dựng để tưởng nhớ và vinh danh những đóng góp của bà cho quê hương.
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh ngày 1/11/1910 (có tài liệu viết sinh ngày 30/9/1910) trong một gia đình công chức nhỏ tại thành phố Vinh, là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nữ chiến sĩ cộng sản đã chiến đấu và hy sinh trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.
Từ nhỏ, Nguyễn Thị Minh Khai được gia đình tạo điều kiện cho ăn học và sớm giác ngộ cách mạng, tham gia các phong trào yêu nước. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, Nguyễn Thị Minh Khai là một trong những đảng viên lớp đầu tiên của Đảng được phân công phụ trách công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ, huấn luyện đảng viên ở khu vực Trường Thi, Bến Thủy và tổ chức Hội Phụ nữ Giải phóng. Tháng 3/1930, đồng chí được cử sang Trung Quốc, nhận nhiệm vụ liên lạc với các tổ chức cách mạng Việt Nam ở trong nước. Sau một thời gian hoạt động cách mạng tại nước ngoài, năm 1937, đồng chí được phân công về công tác tại Sài Gòn và được cử vào Xứ ủy Nam Kỳ, là Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngày 30/7/1940, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai bị thực dân Pháp bắt giam tại Khám Lớn - Sài Gòn, dù tra tấn hết sức dã man nhưng không thể lay chuyển được ý chí cách mạng kiên cường của nữ chiến sĩ cộng sản. Sáng 28/8/1941, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai cùng với một số đồng chí khác bị giặc đem ra xử bắn ở Hóc Môn.
Nữ Anh hùng lực lượng vũ trang trẻ nhất: Chị Võ Thị Sáu (1933-1952) xứng đáng với danh hiệu này. Ngay từ năm 15 tuổi, chị đã hăng hái tham gia cách mạng, lập nhiều chiến công vang dội. Tháng 5/1950, bị giặc Pháp bắt, tra tấn dã man nhưng chị vẫn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Năm 1952, giặc đày chị ra Côn Đảo và hành quyết. Năm 1993, Nhà nước đã trân trọng truy tặng chị Huân chương chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Bà Nguyễn Thị Định sinh ngày 15-3-1920 tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà là út của 10 anh em trong gia đình nông dân giàu lòng yêu nước và cách mạng.
Nguyễn Thị Định còn được các đồng đội gọi với cái tên thân thương là “cô Ba Định”, “Út Định”.
Nói tới nữ tướng Nguyễn Thị Định là nghĩ ngay tới phong trào Đồng khởi Bến Tre đúng 60 năm trước, năm 1960. Cuộc Đồng khởi diễn ra từ nhận định tình hình chính xác cùng sự lãnh đạo tài ba của nhà cách mạng đầy mẫn cảm và dũng cảm Nguyễn Thị Định. Cuộc đấu tranh này đã hình thành một đạo quân rất mới, có tổ chức của quần chúng, đông đảo nhất là phụ nữ. Sau này chúng ta gọi bằng một cái tên trìu mến “Đội quân tóc dài”.
Sau ngày đất nước thống nhất, nữ tướng Nguyễn Thị Định lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước. Trên cương vị nào, bà Ba Định - Nguyễn Thị Định cũng có nhiều đóng góp, nhất là trong công tác thương binh, liệt sĩ, đền ơn áp nghĩa...
Đồng chí Đinh Thị Vân nguyên là Huyện ủy viên huyện Xuân Trường cũ và ở trong Ban chấp hành Tỉnh hội Phụ nữ tỉnh Nam Định. Bà không qua một lớp đào tạo nghiệp vụ nào về tình báo nhưng lại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một sĩ quan tình báo. Đồng chí đã đi sâu tổ chức tình báo hồi Pháp chiếm đóng Hà Nội và thời kì Mỹ ngụy chiếm đóng Sài Gòn, khai thác những tài liệu quân sự có giá trị, có ý nghĩa chiến lược để phục vụ sự nghiệp chống xâm lược giải phóng đất nước.
Mọi thành quả vô cùng lớn lao của tình báo Đinh Thị Vân đạt được có một tầm quan trọng chiến lược giúp cho Trung ương chỉ đạo kịp thời cuộc chiến đấu với Mỹ ngụy. Những tài liệu hết sức cơ mật đó không phải chị mua được mà là kết quả của sự cảm hóa, thuyết phục, vận động kiên trì quần chúng, trên ý thức “lấy dân làm gốc”. Sĩ quan tình báo Đinh Thị Vân đã vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đồng chí được Bộ quốc phòng phong hàm Đại tá.
Chân dung của chị Võ Thị Thắng hiện lên với nụ cười tự tin giữa hai hàng lính dẫn giải, là biểu tượng của một sinh viên yêu nước, một chiến sĩ can đảm với 'Nụ cười chiến thắng' được một nhà báo Nhật Bản ghi lại trong phiên tòa của Mỹ ngụy vào năm 1968. Năm 11 tuổi, chị đã góp phần trong phong trào cách mạng và sau đó, năm 17 tuổi, chị tham gia vào các hoạt động đấu tranh của sinh viên, thanh niên và học sinh Sài Gòn để xây dựng cơ sở chính trị chuẩn bị cho cuộc tiến công năm Mậu Thân (1968). Chị cũng tham gia vào Phong trào Công nhân và lực lượng vũ trang trong thành phố.
Khi tham gia vào nhiệm vụ tiêu diệt giặc ở Phú Lâm, chị bị bắt. Chúng quyết định kết án chị 20 năm tù và chị đã đáp trả chúng bằng nụ cười, thách thức: 'Liệu chính quyền của các người có đủ sức sống 20 năm để giam tôi không?'. Câu nói nổi tiếng này đã truyền cảm hứng cho toàn dân đấu tranh chống giặc. 6 năm trong tù, bị tra tấn, nhưng chị và nhiều chiến sĩ khác vẫn không bị khuất phục trước sự tàn bạo của kẻ thù. Tại nhà tù, trong hoàn cảnh khó khăn, chị dùng đó làm cơ hội để rèn luyện bản thân, thử thách tinh thần và lòng trung kiên với dân tộc, với Tổ quốc. Sự dũng cảm của một sinh viên yêu nước đã trở thành nguồn động viên cho nhiều chiến sĩ cộng sản. Đến tháng 3 năm 1973, theo Hiệp định Pa-ri, kẻ thù buộc phải trả tự do cho các chiến sĩ cách mạng. Khi ra tù, chị vẫn vươn cao đầu với tư thế của một người chiến thắng. Sau hòa bình, chị luôn nhớ lời dạy của Bác Hồ, luôn tuân thủ chủ trương của Đảng, Nhà nước, lắng nghe tiếng nói của nhân dân khi được bầu làm đại biểu Quốc hội. Sau này, chị nhận nhiệm vụ lãnh đạo ngành Du lịch và đã đưa ngành này trở thành một mũi nhọn quan trọng trong nền kinh tế quốc gia.
Nguyễn Thị Út hoặc Út tịch (1931-1968) là một nữ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của Việt Nam. Cuộc đời bà đã được nhà văn Nguyễn Thi xây dựng thành nhân vật chính trong tác phẩm 'Người mẹ cầm súng', về sau được dựng thành phim 'Mẹ vắng nhà'.
Bà có tính khí mạnh mẽ, sớm chịu ảnh hưởng sự tuyên truyền cuộc cách mạng Việt Minh, từ đó tích cực ủng hộ Cộng sản. Khi người Pháp tái chiếm Nam bộ, mở rộng trên toàn cõi Đông Dương, Út xung phong tham gia chiến đấu chống quân Pháp với câu nói nổi tiếng mà về sau được nhà văn Nguyễn Thi ghi lại 'Nó đánh mình, mình đánh nó!'. Sau khi lập gia đình với một chiến sĩ Việt Minh tại địa phương, bà tiếp tục hoạt động trong đội du kích địa phương. Sau Phong trào Đồng khởi, ông bà tham gia hoạt động quân sự của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1964, bà kết nạp vào Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam. Bà bị thương nặng và hy sinh sau đó trong một trận rải thảm B52 của Không Lực Hoa Kỳ vào 27/11/1968 xuống Châu Đốc. Bà được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, một con đường tại quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh cũng được đặt theo tên bà.
Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong phong trào du kích ở vùng tạm chiếm, những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1946 đến 1948, chị vừa là bí thư phụ nữ vừa là chỉ huy một trung đội du kích ở xã. Năm 1950, chị giật mìn diệt một tiểu đội địch đi tuần tra trên đường 39. Đó là tiếng mìn đầu tiên cảnh cáo quân địch và thức tỉnh phong trào đấu tranh vũ trang của nhân dân. Khi bị giặc bắt, bị tra tấn dã man, chị chết đi sống lại nhiều lần nhưng kẻ địch không khai thác được gì đành phải thả chị ra. Về quê, chị lại được chi bộ bố trí nhiệm vụ trong đội du kích. Ngoài việc luyện tập canh gác quấy rối và đánh địch, chị còn lãnh đạo chị em khai hoang, cấy lúa, chăn nuôi gà để lấy tiền mua sắm vũ khí.
Năm 1951, tay không, chị đã dùng mưu bắt một tiểu đội địch ngay giữa chợ, thu được 7 khẩu súng. Sau đó chị lại dùng mưu bắt tên sĩ quan Pháp chỉ huy trong một trận càn quét của chúng ở xã. Năm 1952, trong Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, chị được Hồ Chủ Tịch tặng một khẩu súng ngắn, được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, huân chương Quân công hạng Ba và chị được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.