Chương 2. Cấu trúc tế bào
Bài 12 trang 28 SBT Sinh học 10:Hãy tìm hiểu và mô tả thí nghiệm chứng minh màng sinh chất có tính khảm động.
Lời giải ngắn nhất:
Chuẩn bị mẫu vi khuẩn và màng sinh chất: Sử dụng một mẫu vi khuẩn, chẳng hạn như Escherichia coli, và một màng sinh chất phù hợp, chẳng hạn như màng sinh chất được thu từ cỏ mỳ, cây lúa hoặc các nguồn khác.
+ Chuẩn bị một môi trường nuôi cấy phù hợp, chẳng hạn như môi trường LB agar.
+ Trên bề mặt môi trường agar, tạo ra các khu vực được chấp nhận và bị hạn chế bằng cách đặt các chấm nước hoặc các phương tiện khác. Các khu vực chấp nhận là nơi mà vi khuẩn có thể phát triển tự nhiên, trong khi các khu vực bị hạn chế là nơi mà vi khuẩn không thể phát triển.
+ Đặt màng sinh chất lên trên mặt môi trường agar, sao cho nó phủ kín cả các khu vực được chấp nhận và bị hạn chế.
+ Theo dõi sự phát triển và di chuyển của vi khuẩn qua màng sinh chất trong khoảng thời gian nhất định. Ghi nhận các hiện tượng như vi khuẩn di chuyển qua màng, sự sinh trưởng và phân bố của chúng trên màng, và các hiện tượng tương tác với màng sinh chất.
+ Dựa trên quan sát và ghi nhận, phân tích và đánh giá sự khảm động của màng sinh chất, bao gồm khả năng cho phép vi khuẩn di chuyển và trao đổi chất qua màng.
Lời giải chi tiết
Thí nghiệm chứng minh cấu trúc khảm – động của màng sinh chất:
- Đánh dấu protein màng tế bào ở người và protein màng tế bào ở chuột bằng các chất phát quang khác nhau. Sau đó dung hợp tế bào người với tế bào chuột để hợp nhất hai tế bào này thành một tế bào lai có chung một màng sinh chất.
- Kết quả sau một thời gian dung hợp hai tế bào, các protein của tế bào người và protein của tế bào chuột di chuyển đan xen với nhau trên màng của tế bào lai.
→ Chứng tỏ ít nhất cũng có một số protein màng có khả năng di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác theo chiều ngang trong lớp phospholipid kép.
Màng sinh chất có tính khảm động vì:
- Cấu trúc “khảm” có nghĩa là các protein màng được đan xen vào những vị trí nhất định trên màng; còn “động” hay “lỏng” là các thành phần của màng không cố định cứng nhắc mà có thể di chuyển giúp chúng thực hiện các chức năng khác nhau. Mức độ “lỏng” của màng tế bào như độ lỏng của dầu ăn, các phân tử phospholipid nằm sát nhau và gắn kết với nhau bằng tương tác kị nước và tương tác van der Waal nên sự gắn kết giữa các phân tử là tương đối lỏng lẻo, dẫn đến chúng có thể tự do di chuyển trong cùng một lớp phospholipid. Tốc độ di chuyển của các phân tử của màng phụ thuộc vào mật độ phân tử phospholid. Nếu màng có nhiều cholesterol cũng làm giảm mức độ di chuyển của các phân tử.