logo

Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt qua nhân vật Tràng

Bạn đang gặp khó khi làm bài văn Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt qua nhân vật Tràng? Đừng lo! Hãy tham khảo những bài văn mẫu đã được tuyển chọn và biên soạn với nội dung hay nhất của Top lời giải dưới đây để nắm được cách làm cũng như bổ sung thêm vốn từ ngữ nhé. Chúc các bạn có một tài liệu bổ ích!


Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt qua nhân vật Tràng - Bài văn mẫu 1

        Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn tiêu biểu của văn học Việt Nam trước và sau cách mạng tháng Tám. Bằng tài năng nghệ thuật, sự am hiểu về đời sống người nông dân, Kim Lân đã xây dựng thành công hình tượng những người nông dân nghèo yêu nước trong tác phẩm của mình. Vợ nhặt là một tác phẩm như thế, Tràng là nhân vật chính của câu chuyện, tuy có cuộc sống nghèo khổ, bất hạnh nhưng anh lại là người giàu tình thương, luôn khát khao hạnh phúc và tin tưởng vào một tương lai tươi sáng, tốt đẹp. Tinh thần nhân đạo của nhà văn Kim Lân được truyền tải rõ nét thông qua hình tượng nhân vật này.

        Anh Tràng là người dân xóm Ngụ cư, diện mạo xấu xí, thô kệch xí với cái đầu trọc lóc, cái lưng “thô kệch như lưng gấu”, “đôi mắt nhỏ tí như mắt gà”. Gia cảnh nghèo khó lại phải nuôi mẹ già. Với hoàn cảnh đặc biệt như vậy có thể nói anh Tràng khó có thể lấy được vợ, càng trở nên xa vời hơn khi nạn đói xảy ra. Thế nhưng bất ngờ thay, vào thời điểm nạn đói bùng phát dữ dội nhất anh Tràng lại vô tình “nhặt” được vợ, xây dựng hạnh phúc gia đình trong lúc không ai ngờ đến nhất.

Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt qua nhân vật Tràng ngắn gọn, hay nhất

        Tràng là đại diện tiêu biểu cho những người dân xóm Ngụ cư có cuốc sống nghèo khổ, mang trên vai gánh nặng gia đình. Tuy xấu xí, ngờ nghệch nhưng anh lại là người lao động chăm chỉ với công việc đẩy xe bò mướn, cũng chính nhờ công việc này mà anh “nên duyên” với người vợ nhặt.

        Chỉ với vài câu nói đùa, chén nước với vài ba miếng bánh đúc, anh Tràng đã có vợ, người đàn bà đẩy xe bò thóc cho anh hôm nào đã chấp nhận theo không anh về làm vợ. Đối với sự tình bất ngờ này anh Tràng thấy hơi lo lắng, chột dạ vì trong thời kì đói kém này  đến cái thân mình còn lo không xong, không biết có lo nổi cho người đàn bà đáng thương ấy không “ Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.

        Sự đắn đo, suy nghĩ ấy chỉ diễn ra trong thoáng chốc vì ngay sau đó anh Tràng đã chậc lưỡi “Chậc, kệ” như sự quyết tâm cho hạnh phúc mới mà khó khăn lắm mới có được của mình. Trên đường đi anh Tràng vui vẻ hạnh phúc lạ thường, dường như anh đã quên hết mọi đói khổ, tăm tối đang rình rập trước mắt, trong Tràng giờ đây có cái gì mới mẻ, lạ lẫm lắm. Tác giả Kim Lân đã hơn hai lần nhắc đến niềm vui sướng của anh Tràng: khuôn mặt phởn phơ, đôi mắt lấp lãnh, miệng cười tủm tỉm.

        Trong đêm đầu tiên vợ về nhà, anh Tràng đã bỏ ra hai hào để mua dầu, có thể thấy hành động này vô cùng hào phóng, bởi trong nạn đói nhu cầu trên hết của con người là miếng ăn duy trì sự sống, việc mua dầu thắp sáng trong đêm tân hôn được coi là xa xỉ. Tuy nhiên, qua hành động này ta có thể thấy được sự trân trọng của anh Tràng đối với người vợ nhặt cũng như hạnh phúc mới của mình. Thế mới thấy bên trong con người anh Tràng luôn thường trực  khát khao hạnh phúc nên khi hạnh phúc đến anh mới dễ dàng đón nhận và trân trọng nó đến vậy.

        Kể từ khi có vợ, anh Tràng dường như trở nên chững trạc hơn, nghiêm túc hơn với gia đình của mình, sự thay đổi lớn nhất bên trong con người Tràng chính là suy nghĩ cần phải làm gì đó để lo cho vợ con sau này, đó là trách nhiệm của người đàn ông, người trụ cột trong gia đình.

        Cuối tác phẩm, hình ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ xuất hiện trong tâm trí Tràng như mở ra con người mà anh Tràng sẽ đi để bảo vệ cho làng xóm, cho gia đình nhỏ của mình. Chi tiết này cũng thể hiện được ước mơ, niềm tin về tương lai của Đảng và cách mạng.

        Nhân vật Tràng trong Vợ nhặt mang đến cho người đọc biết bao cảm xúc đặc biệt, đó là sự bất ngờ, ngạc nhiên và trên hết là cảm động, bên trong con người đàn ông xấu xí thô kệch ấy lại là một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ đáng trân trọng.


Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt qua nhân vật Tràng - Bài văn mẫu 2

        Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài (1920), quê ở làng Phù Lưu, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình nghèo khó, sau khi học hết bậc tiểu học ông phải nghỉ học để đi làm thuê. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941.

        Hầu hết tác phẩm của ông đều mang không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của những con người bị cái nghèo đeo đuổi. Đồng thời qua đó các tác phẩm còn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của những người nông dân trước CM_nghèo khổ, cực nhọc nhân vẫn khao khát yêu đời, tiêu biểu là các tác phẩm như: Đứa con người vợ lẽ, Con chó xấu xí, Nên vợ nên chồng… Qua các tác phẩm, Kim Lân đã thể hiện mình là cây bút vững vàng, ông đã viết về cuôc sống và con người nông thôn bằng những tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Hay như nhà văn Nguyên Hồng đã từng nhận xét rằng: Ông là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. 

        Và vốn dĩ là thế, từ xưa đến nay nông thôn luôn là đề tài quen thuộc của mọi tác gia dù ta có phân loại nó theo phương diện nào cũng thể bỏ qua được nó. Với đề tài ấy, nhiều nhà thơ, nhà văn đã trở nên nổi tiếng và nhiều tác phẩm có giá trị ra đời. Chẳng hạn như trước CMT8 có “Tắt đèn của Ngô Tất Tố”, “Chí Phèo của Nam Cao”… Trong số đó có “Vợ nhặt của Kim Lân” đã làm xôn xao ko ít trái tim triệu con người. Tác phẩm đc ông viết dựa trên bản thảo cũ có tên “Xóm ngụ cư” đã bị thất lạc trước đó. Sau năm 1954, Kim Lân đã dựa trên cốt truyện cũ và viết lại rồi đổi tên thành “Vợ nhặt” và in trog tập “con chó xấu xí”.

        “Vợ nhặt” ca ngợi tình cảm yêu thương, sự cưu mang, đùm bọc và niềm tin vào tương lai của những con người khốn khổ giữa lúc nạn đói hoành hành. Qua đó truyện còn tố cáo tội ác dã man của xã hội thời Pháp-Nhật đã đẩy dân ta vào nạn đói khủng khiếp 1945.Truyện kể về anh Tràng, một thanh niên nghèo khổ, xấu xí, làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm sống. Anh ở với người mẹ già nơi xóm ngụ cư. Giữa nạn đói khủng khiếp năm 1945, Tràng đã đưa người “vợ nhặt” được ở chợ về nhà. Đó là người phụ nữ nghèo bị cái đói hành hạ nên săn sàng chấp nhận theo anh chỉ vì anh đã đãi thị ăn một bữa bánh đúc. Ngày Tràng đưa thị về làm cả xóm ngạc nhiên, mẹ Tràng-bà cụ Tứ cũng ngạc nhiên. Nhưng với tình mẫu tử và lòng nhân đạo cao cả bà đã chấp nhận cô con dâu mới trong tâm trạng vừa buồn tủi, vừa xót thương. Sáng hôm sau, bà cụ cùng nàng dâu mới dậy thật sớm để dọn dẹp nhà cửa, vườn tược. Trong bữa ăn thảm hại của ngày đói, bà cụ chỉ toàn nói đến những chuyện vui để động viên cho con và nàng dâu về những gì tốt đẹp ở tương lai. Kết thúc câu chuyện là việc cô vợ Tràng đã kể cho anh nghe về việc Việt Minh phá kho thóc để chia cho dân nghèo, và trong tâm trí Tràng giờ đây hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.

        Đọc “Vợ nhặt của Kim Lân ta lại nhớ đến “Một đám cưới nghèo” của Nam Cao với những bóng đen lầm lũi đi trong màn sương chiều chập choạng. Và đến với Kim Lân cũng thế, ông đã thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng nhập nhoạng, mù mờ của một buổi tối chiều “chạng vạng”. Và thấp thoáng trong thứ ánh sáng đó là hình ảnh “những gia đình từ Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, họ “nằm ngổn ngang khắp chợ, người chết như rạ. Sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng cũng gặp bốn năm cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẫn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Tất cả là tượng trưng cho một cuộc sống đang mấp mé bên bờ vực thẳm giữa sự sống và cái chết. Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm đã gợi lên một không khí nặng nề, phản ánh cuộc sống khó khăn, cơ cực, phải ăn bobo thay gạo, phải lấy lá thay chăn của những con người nông dân nghèo khổ vào nạn đói khủng khiếp năm 1945.

        Trong khung cảnh đó, nhân vật Tràng hiện lên như một con người hoang sơ, ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn của một cuộc sống không ra sống, chết không ra chết. Tràng được Kim Lân miêu tả với ngoại hình vô cùng thô kệch và xấu xí như: “ hai mắt nhỏ tí, hai quai hàm bạnh ra, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay ”, thân hình thì “vập vạp” cùng với kiểu cười “hềnh hệch”, “cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước, cái lưng to như lưng gấu”…đó là hình dáng của Tràng nói riêng hay của tất cả những con người nghèo đói nơi đây.Vả lại, lại là dân ngụ cư nên thân phận Tràng lại càng trở nên bị coi khinh, ruồng bỏ. Và bằng chính nghệ thuật sáng tạo độc đáo của mình, Kim Lân đã gây ra cho người đọc những bất ngờ ở đầu câu truyện:

        “Giữa cái cảnh đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa”. Một người đàn bà ko rõ lai lịch đã bước vào cuộc đời hắn.

        Tràng có vợ. Người như Tràng mà lại có được vợ. Cái “kẻ” mang bộ dạng như con gấu, xấu xí, thô kệch, nghèo khổ, và đang sống trong một xã hội đang bị đẩy sát tới cái ranh giới phân chia của tồn tại và không tồn tại thế kia mà lại “nhặt” được “thứ” vốn tượng trưng cho hạnh phúc, cho những con người ăn nên làm ra. Tràng dẫn thị về, sự tò mò, xoi mói cứ lan dần theo từng bước chân của hắn và người đàn bà lạ mặt ấy trên con đường mòn xao xác. Mọi người cứ xì xầm, bàn tán “Ai đấy nhỉ? Hay người nhà bà cụ Tứ mới lên? Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu?”.

        Mặc cho những lời xầm xì bàn tán, Tràng vẫn lầm lũi bước dưới gôc gại sù sì, nơi có “bóng những người đói đi lặng lẽ như những bóng ma thay cho khách” và tiếng quạ thét gào thê thiết như thay cho pháo cưới. Câu chuyện chìm trong nặng nề và sợ hãi với đầy vẫy những cảnh u tối, “Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào”, chết chóc đã gieo đầy khắp nơi, ấy vậy mà Tràng lại có vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước của mình rồi sẽ ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cả thị cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau, kết tụ thành một gia đình, bỡi lẽ Tràng cũng như bao chàng thanh niên khác vậy, anh cũng mong muốn có một gia đình hạnh phúc, có một người vợ để được yêu thương. Và có lẽ đó cũng là do sự rung động của trái tim hắn vậy, bởi trong lần gặp thị lần thứ nhất, hắn đã hết sức thích thú khi thị đùa vui với hắn vì từ trước giờ “có ai cười tình với hắn như thị đâu”. Và hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến với nhau qua những lời yêu đại loại như: “Rích bố cu, hở”, “Làm đếch gì có vợ”. “Làm đếch gì có vợ”, lời nói hắn lúc bấy giờ thô lỗ, sỗ sàng làm sao ấy nhưng sâu trong nó là ẩn chứa sự chua chát của cuộc đời, là ước mơ thầm kín nhen nhóm trong lòng hắn. Chỉ nhờ bốn bát bánh đúc mà Tràng có được vợ, chỉ vì bốn bát bánh đúc mà thị chấp nhận theo Tràng về. Có xót xa không, khi cái đói tuy mang nhiều đau khổ nhưng cũng có thể se duyên cho hai tâm hồn nghèo khó.

        Và khi nhặt thị về, hắn đã nghĩ: “Thóc gạo này đến cái thân mình không biết có nuôi nổi không lại còn đèo bồng”, nhưng rồi hắn tặc lưỡi: “Chậc kệ”. Một quyết định hết sức tầm thường đối với việc lớn của cả đời hắn: hắn có vợ. Nhưng ta cũng có thể hiểu rằng, cái tặc lưỡi đó là đồng nghĩa với việc Tràng đã chấp nhận đánh với cuộc đời, với cái nghèo đói để sống một cuộc sống “đầy đủ” như mọi người. Đó chính là khát vọng và cũng là hạnh phúc của chàng trai nghèo, thô kệch tìm được trong thời buổi bấy giờ. Bởi khi thị chấp nhận theo hắn về, trong lòng hắn đã bật lên một niềm hạnh phúc lớn lao, và trong lòng hắn giờ đây đang ngầm chứa một niềm ao ước về hạnh phúc gia đình thực sự: “Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ lạ lắm, chưa từng có ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”. Và đối với Tràng, chuyện hắn có được vợ cứ như là giấc mơ vậy: “thậm chí đến sáng hôm sau, khi có vợ rồi mà hắn cứ ngỡ mình đang nằm mơ”.

        Hành động của Tràng dù vô tình, không chủ đích, hay chỉ là tầm phơ tầm phào nhưng điều ấy lại cho ta thấy được tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc cho những người đồng cảnh ngộ. Đồng thời nó còn bộc lộ nỗi niềm khao khát về hạnh phúc gia đình trong lòng hắn, đó là những ước mơ thật bình dị và tốt đẹp làm sao.Tràng có vợ, với hắn có vợ là chuyện nghiêm túc. Hắn không hề xem thị là cô “vợ nhặt” ở đầu đường xó chợ. Bởi sau khi thị đồng ý theo hắn về: “hắn đưa thị vào chợ mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt”. Hắn đã thực sự trưởng thành, hắn đã biết lo cho cuộc sống của vợ hắn một cách chu đáo theo khả năng của hắn. Mặt khác, sau khi mua đồ cho thị, hắn còn dẫn thị “ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê” rồi mới về ra mắt mẹ. Món đồ, bữa ăn cứ như quà cưới, tiệc cưới của người thanh niên nghèo và cô “vợ nhặt” trong hoàn cảnh cái đói, cái chết bao phủ cả xóm làng.

        Điều đó, đã làm ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt giữa Kim Lân và người nông dân, ông đã hiểu, đã miêu tả người nông dân nghèo đói bằng những gì chân thật nhất, ngay cả trong những tình tiết có vẻ như rất buồn cười nhưng sâu bên trong nó là những nỗi buồn và niềm thương cảm cho số kiếp của họ. Những trang viết về những con người “dưới đáy” như thế này không làm ta khinh ghét mà lại càng làm ta xót thương cho họ. Họ đã không được gọi là người khi chính xã hội đang từ bỏ họ. Ở đây, Kim Lân đã không nói đến những nét thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và nhân cách. Mà ngược lại, với việc đặt họ vào một khoảng sống mờ tối, lắt lay, ông đã tìm ra cho họ một cơ hội sống để biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát thèm sống, thèm những gì tươi sáng hơn vào tương lai. Niềm ao ước có hạnh phúc đó nó cứ âm thầm vươn lên từ đói khát, tối tăm và chính vì thế mà nó đã trở nên cảm động và đáng quí biết bao. Và việc Tràng đã sẵn sàng hào phóng “mua hai hào dầu thắp đèn” đã thể hiện niềm ước mơ đó. Ước mơ thoát khỏi cái đói, thoát khỏi cuộc sống nghèo nàn, bế tắc trong xã hội bấy giờ. Đồng thơi việc Tràng mua dầu còn thể hiện sự trân trọng của anh giành cho người vợ của mình. Anh không hề xem thị là người “vợ nhặt”, dù nghèo khổ nhưng anh vẫn muốn tạo cho thị một không khí trang trọng trong “ngày cưới”. Và với ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu ấy, tất cả mọi tối tăm của đói nghèo dường như đang dần tan biến đi trong căn nhà này mà thay vào đó niềm tin vào tương lại, vào cuộc sống.

        Và bên cạnh đó, cũng chính tình cảm gia đình ấy đã làm cho hắn thay đổi. Từ anh thanh niên ngô nghê, thô kệch hắn đã trở thành một người chồng đúng mực khi có vợ. Tình yêu, hạnh phúc khiến “trong một lúc Tràng quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày qua”. Hắn trở dậy, hắn thay đổi. Và những thay đổi ấy không có gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương. Trong con người hắn trở dậy để chào đón hạnh phúc thật khác lạ. Hắn không còn là hắn của ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu với mẹ, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ hắn cùng thị quét tước cửa nhà “Bỗng nhiên hắn thấy yêu thương và gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy”, hắn thấy “mình đã nên người”, thấy mình “có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Hắn cũng muốn cùng mẹ và vợ tham gia dọn dẹp nhà cửa cho quang quẻ để cuộc sống sau này có cơ khấm khá hơn.

        Hành động, cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó những chuyển biến lớn trong tính cách và cuộc đời hắn. Chính tình yêu của vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc. Và niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi hắn nghe thị kể và nghĩ đến đám người trên Thái Nguyên, Bắc Giang cướp kho thóc chia cho dân nghèo và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, mẹ hắn và vợ hắn sẽ thay đổi. Hắn tin thế.

        “Vợ nhặt” là một tác phẩm thành công trong nghệ thuật dựng truyện. Ngoài ra, với cách kể chuyện độc đáo, Kim Lân đã lôi cuốn người đọc bởi giọng kể hóm hỉnh, mọc mạc nhưng vẫn tạo được nét riêng cho chính mình. Tất cả các nhân vật đã được ông khắc họa rõ nét trong từng chi tiết diễn biến tâm lí, từ anh Tràng đến bà cụ Tứ, đến thị và cả những người chung quanh. Nó đã thể hiện một cách tự nhiên, chân thật những thứ vốn có trong cuộc sống hàng ngày và tâm lí nhân vật cũng được miêu tả rất tinh tế. Với cách chọn lọc những từ ngữ, Kim Lân còn làm cho “Vợ nhặt” thêm gần gũi và sinh động hơn với những ngôn từ dân giã và đậm đà bản sắc riêng. Với tình tiết truyện độc đáo, hình ảnh lá cờ vừa mang ý nghĩa tượng trưng vừa nâng cao giá trị tư tưởng cho tác phẩm.

        Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, mang đậm tính chất nông thôn và lối viết văn vô cùng giản dị mà vẫn phản ánh được chất hào hoa Kinh Bắc, Kim Lân đã làm cho “Vợ nhặt” trở thành một tuyệt tác. Những tâm trạng kín đáo nhất cũng phải hiện lên qua ngòi bút của ông như: tiếng gắt vô duyên vô cớ, tiếng ho khẽ bình thường, những bước chân vội vã, hay thái độ cố tỏ vẻ điềm nhiên khi ngậm miếng cám tan trong đầu lưỡi…Nhưng ở đây, cái đọng lại cuối cùng vẫn là cái nhìn đời đầy thương xót của nhà văn vào nạn đói năm 1945 và đan xen vào đó là niềm tin vào cuộc sống mà ông muốn gởi đến cho những con người lúc bấy giờ. Dù cuộc sống có bi thảm đến đâu đi chăng nữa thì chính cái cội nguồn nhân bãn lưu giữ cho nhân dân là bất diệt, và khát khao chính đáng của con người chính là khát khao được sống, được hưởng hạnh phúc gia đình, được sống ấm no đầy đủ. Chính những khao khát đơn giản đó, chính những niềm tin mãnh liệt vào tương lai ấy nên chỉ sau một thời gian ngắn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm nên thắng lợi vẻ vang: Cách mạng tháng Tám thành công. Và cũng chính Kim Lân đã đưa người đọc quay về thời kì đen tối của xã hội 1945 để họ đồng cảm, xúc động cho những con người bất hạnh thời bấy giờ. “Vợ nhặt” xứng đáng là một thiên truyện ngắn hay của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Ngoài ra, các em cùng Toploigiai tìm hiểu thêm về giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt nhé!

1. Giá trị nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt” Kim Lân được thể hiện qua nhân vật vợ Tràng

        Kim Lân, một nhà văn sáng tác không nhiều, cả cuộc đời cầm bút của ông chỉ để lại vẻn vẹn trong hai tập truyện ngắn: “Nên vợ nên chồng” (1955), “Con chó xấu xí”(1962). Mặc dù ông sáng tác rất ít nhưng các tác phẩm của ông đều sáng giá trong nền văn học hiện đại.

        “Vợ nhặt” của Kim Lân lấy đề tài người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Dù bị cái đói, cái nghèo quật ngã nhưng vẫn mang một vẻ đẹp của tình người, của sự sống. Nhân vật cô vợ nhăt trong tác phẩm tiêu biểu cho vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam, điều đó thể hiện tinh tế trong diến biến tâm trạng của nhân vật.

        Khi đề cập đến thân phận nhân vật người “vợ nhặt” này, nhà văn Kim Lân không đặt cho nhân vật một cái tên cụ thể nào cả mà gọi một cách phiếm định: thị, có lúc là người đàn bà, … Việc nhà văn không đặt tên cho nhân vật của mình không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà đó chính là ẩn ý của tác giả: ông muốn nhấn mạnh một điề rằng thị chỉ là một trong vô số những người phụ nữ năm đói mà thôi. Như vậy cách gọi đó khiến nhân vật hiện ra vừa hiện ra cụ thể, vừa khái quát. Thị không có tên, không tuổi, không quê quán, không chốn nương thân, xộc xệch về nhân hình. Chỉ bằng vài ba nét phác họa như vậy thôi, Kim Lân cũng đã tái hiện một bức chân dung người vợ nhặt khá rõ: “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai hố mắt” và “cái ngực gầy lép”. Có lẽ Kim Lân đã phát huy một cách hiệu quả sức mạnh của bút pháp “tả chân”sở trường của mình – một trong những yếu tố nghệ thuật mang dấu ấn thi pháp của khuynh hướng hiện thực, để khắc sâu, tô đậm chân dung thê thảm của người phụ nữ – nạn nhân năm đói.

        Người vợ nhặt xộc xệch cả về mặt nhân tính. Chị ta xuất hiện trong nhưng trang văn đầu tiên như một kẻ trơ tráo, táo bợ, liều lĩnh: chỉ cần mấy câu hò tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc, cô đã theo không Tràng về làm vợ. Vịn vào câu hò như một lời hứa hẹn thật. Thế nên gặp lại hai lần sau vài ngày, người đàn bà ấy mới tự cho mình cái quyền sưng sỉa, trách móc, cong tớn: “điêu, người thế mà điêu. Hôm ấy leo lẻo cái mồn hẹn xuống thế mà mất mặt”. Ta không thể quên được hình ảnh đôi mắt trũng hoáy của thị sáng lên khi xà xuống ăn bốn bát bánh đúc…Dường như với người đàn bà ấy danh dự và lòng tự trọng là cái gì đó quá xa xỉ cho nên dễ dàng gạt sang một bên để được ăn, để được sinh tồn. Có thể nói, chỉ bằng những cử chỉ, hành động của nhân vật, nhà văn Kim Lân đã làm hiện rõ hình ảnh một người đàn bà trơ tráo, táo tợn, liều lĩnh. Tính cách ấy chỉ là sản phẩm của một cuộc sống nghèo đói, vất vương, lang thang lề đường xó chợ chứ không phải bản chất của người phụ nữ này.

        Viết về đề tài cái đói, cái nghèo, không chỉ riêng mình Kim Lân, mà những trang văn của Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan giai đoạn sáng tác trước cách mạng cũng đề cập đến nhiều như Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan), đặc biệt là những tác phẩm của Nam cao như “Một bữa no” hay “Trẻ con không được ăn thịt chó”. Nhưng dường như các nhà văn này mới chỉ xoáy vào hiểm họa: cái đói cướp đi sinh mệnh con người, đẩy con người vào bước đường cùng, hoặc cái đói có nguy cơ ghì xát con người xuống mặt đất. Ngòi bút Kim Lân tiếp nối góc nhìn ấy song còn đem đến cho người đọc một góc nhìn khác đầy chất nhân văn cao cả. Đó là cái đói có thể hủy hoại, tước đoạt những vẻ đẹp giàu chất nữ tính nhất ở người phụ nữ, nhưng, họ vẫn không mất đi niềm tin vào cuộc sống, ánh sáng ở tương lai. Hay nói một cách khác, Kim Lân mượn cái đói để làm nổi bật vẻ đẹp của tình người. Điều này thể hiện rõ ở tâm trạng của người vợ nhặt.

        Diễn biến tâm trạng của người vợ nhặt cũng trải qua bốn chặng. Đầu tiên là ngượng ngùng, xấu hổ. Từ khi rơi vào tình cảnh theo không Tràng làm vợ, cô vợ nhặt trên đường theo Tràng về bộc lộ rõ nét tâm lý ngượng ngùng, xấu hổ. Bên cạnh dáng vẻ phởn phơ, tự đắc của Tràng, thì cái vẻ thèn thẹn của người vợ càng lộ rõ. Thậm chí trước lời bàn tán của dân xóm ngụ cư, thị “ngượng ngùng chân nọ díu evào chân kia, thị chỉ dám càu nhàu ở trong miệng”, càu nhàu khẽ đến mức Tràng đi bên cạnh mà không nghe rõ. Ra thế, những nét đanh đá, chỏng lỏn, sống sượng không phải là bản chất mà là sản phẩm của hoàn cảnh năm đói, vẫn còn đó nguyên vẹn trong chị vẻ thuần hậu của người phụ nữ lao động thôn quê.

        Trên đường gần về nhà Tràng, người vợ nhặt rơi vào tâm trạng lo âu, phấp phỏm, điều này được thể hiện rõ qua những câu hỏi dồn dập của thị với Tràng: “Nhà có ai không?”, “Sắp đến chưa?”,”Sao lâu thế?”….Bởi chị theo không Tràng là bất đắc dĩ, là để tránh cái đói quay quắt, không biết những gì đang đợi chị ở phía trước cho nên trong lòng lo lắng, bất an. Rồi khi trông thấy gia cảnh nhà Tràng chỉ là một “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm nhổm những bụi cỏ dại”, người vợ nhặt không nén nổi tiếng thở dài ngao ngán. Khi bước vào nhà, chị đứng khép nép tay vân vê tà áo rách, mặt bần thần. Nhà văn Kim Lân dã miêu tả thật tinh tế tâm lý của người vợ nhặt khi rơi vào tình huống theo không Tràng về làm vợ.

        Kim Lân rất tinh tế, chỉ điểm thoáng qua vài biểu hiện thất vọng ở người phụ nữ rồi ông chuyển sang một nét nhân bản hơn; không tránh được cái đói, cái rách, không tránh được cái nghèo, cái khổ, người vợ nhặt đã tìm được một điểm tựa tinh thần. Đó là mái ấm gia đình. Vì vậy có những lúc người vợ nhặt bộc lộ niềm vui, phấn chấn, hạnh phúc qua ngôn ngữ và cử chỉ thân mật như mắng Tràng “hoang nó vừa vừa chứ”…” chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. “Đồ khỉ gió”. Có lúc khặm mặt lại, lườm Tràng một cách tình tứ. Cái lườm của cô vợ nhặt gợi cho ta nhớ đến câu nói nổi tiếng của Nam Cao trong kiệt tác Chí Phèo: “Người đàn bà dù xấu đến đâu, khi yêu cũng lườm”. Cái lườm của người vợ nhặt ở đây quả là đã vượt len trên cái đói, cái khát để đi đến một niềm hạnh phúc rất đời thường.

        Được sống trong tình thương ấm áp của gia đình bà cụ Tứ, người vợ nhặt đã có được những thay đổi rõ nét: dịu dàng, đôn hậu trở lại, cùng bà mẹ chồng “xăm xắn” quét dọn vườn tược, nhà cửa. Việc quét dọn nhà cửa trong những ngày tháng ấy xét về mặt kinh tế thì vô nghĩa nhưng nó lại có ý nghĩa to lớn về mặt giá trị tinh thần nhân văn. Tràng, cô vợ nhặt, bà cụ Tứ không chấp nhận lối sống tạm bợ qua ngày, họ vẫn hướng tới một cuộc sống bền vững, tốt đẹp hơn. Sự thay đổi của cô vợ nhặt cũng khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: ” nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.” Không chỉ vậy, cô vợ nhặt còn có những dự cảm tốt đẹp về tương lai. Cuối tác phẩm, cô vợ nhặt nhắc đến truyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Câu chuyện tưởng vu vơ này nhưng lại bộc lộ một dự cảm đổi đời, một cuộc thay đổi số phận trong đó có người vợ nhặt.

        Cô vợ nhặt xuất hiện trong tác phẩm của Kim Lân như một ngọn nến leo lắt trước cơn bão giông tố của cuộc đời, nhưng có một vai trò rất lớn đối với các nhân vật trong tác phẩm. Đầu tiên đối với dân xóm ngụ cư, Tràng và người vợ nhặt đã khiến cho cả xóm ngụ cư ngạc nhiên “những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”. Họ bàn tán, thở dài, lại khẽ thì thầm, rồi bỗng lại cười lên rung rúc. Tràng và người vợ nhặt đi đến đâu “có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối” của dân xóm ngụ cư, nhen nhóm cho họ niềm tin và hy vọng. Cô con dâu cũng đem đến niềm vui, hạnh phúc cho người mẹ chồng. Lúc đầu, bà cũng như những người dân xóm ngụ cư ngạc nhiên với những câu hỏi dồn dập. Hàng ngày gương mặt bà cụ Tứ bủng beo, u ám, hôm nay rạng rỡ hẳn lên, bà nhẹ nhõm tươi tỉnh khác ngày thường. Ảnh hưởng lớn nhất của cô vợ nhặt là đối với Tràng. Thiếu thị Tràng vẫn chỉ là Tràng của ngày xưa ấy: ngây dại và đau khổ. Tràng đã có những biến đổi trong tâm lý, trong tư tưởng, biết yêu thương, biết lo cho gia đình nhỏ của mình và biết nghĩ đến tương lai. Tràng muốn làm trụ cột cho gia đình bé nhỏ ấy, để mẹ, để Thị có thể nương tựa vào. Thị đã thổi một luồng gió mới đem đến cho Tràng ý thức và hạnh phúc.

        Cô vợ nhặt có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng nhân đạp của tác phẩm. Qua số phận lay lắt của thị, Kim Lân tỏ lòng xót thương vô hạn những con người bất hạnh, mong manh như người vợ nhặt trong nạn đói khủng khiếp năm ất dậu 1945. Nhà văn gián tiếp tố cáo bọn thực dân, phát xít và tay sai đã tạo ra nạn đói, hạ thấp nhân phẩm của con người khiến thân phận họ rẻ rúng như cọng rơm, cọng cỏ.

        Quả là nhà văn đã đứng về phía nhân dân, về con người để lên án tội ác. Nhân vật cô vợ nhặt góp phần thể hiện thái độ trân trọng của tác giả trước những phẩm chất tốt đẹp của con người không bị bào mòn bởi cái đói, cái chết. Đó là niềm tin vào cuộc sống, khao khát hạnh phúc, dù nhỏ bé, bình dị, nhưng xúc động lòng người. Trong tác phẩm chưa có một cuộc cách mạng nào nổ ra nhưng hình ảnh những người đi cướp kho thóc Nhật mà người vợ nhặt đề cập đến góp phần khẳng định sức mạnh vùng lên của con người lao động trong thời đại mới.

        Với tấm lòng của một nhà văn chân chính và tình yêu thương con người vô bờ bến, Kim Lân đã tài tình đặt nhân vật vào tình huống rất đỗi bình thường trong đời sống nhưng lại lạ ở cảnh theo người ta về, mình chỉ là đứa mà người ta nhặt từ ngoài đường về mà thôi, nhưng vì miếng cơm qua ngày thì liệu rằng thị có như vậy không. Chính cuộc sống này đã đẩy những con người như thế rơi vào bế tắc mà không biết phải giải thoát như thế nào.

        Người phụ nữ trong sáng tác của ông bất hạnh không phải vì sưu cao, thuế nặng, cũng không khổ vì xấu ma chê quỷ hờn mà người phụ nữ bất hạnh vì nạn đói, vì một cuộc hôn nhân đầy éo le, ngang trái nhưng người vợ nhặt có khát vọng sống mãnh liệt. Thế mới biết hành trình sáng tạo văn chương có muôn nẻo ngả đường và chỉ có nghệ sĩ đủ bản lĩnh như Kim Lân mới có những sáng tạo đặc biệt trên một đề tài tưởng chừng đã cũ.


2. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

        "Vợ nhặt" là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra kinh khủng, người chết đói đầy đường.

        Truyện ngắn đã phản ảnh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện "Vợ nhặt" là giá trị nhân đạo.

        Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận đói năm Ất Dậu - 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện.

        Truyện "Vợ nhặt" đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người nghèo trong trận đói năm Ất Dậu. Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên "xanh xám như những bóng ma" nằm ngổn ngang khắp các lều chợ. Quạ đen đậu trên nhừng ngọn cây bay vù lên "như những đám mây đen" trên nền trời. Mùi gây của xác người vẩn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào cùng ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường!

        Đói và chết đói đâu chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà "vắng teo đứng rúm ró" trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Của nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng tiếng thở dài". Bà cụ Tứ "mặt bủng beo u ám". Anh cu Tràng "bước mệt mỏi", cái đầu "trọc nhẵn chúi về đằng trước" với bao lo lắng chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng nó "ngồi ủ rủ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích". Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái "ngồi vêu ra". Đặc biệt nhân vật "thị", cái đói đã cướp đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần "tả tơi như tổ đỉa". Thị "gầy sọp hẳn đi", khuôn mặt lưỡi cày "xám xịt", chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chị nghe Tràng nói "muốn ăn gì thì ăn", thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe "rích bố cu", hai con mắt "trũng hoáy" của thị tức thì "sáng lên". Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.

        Cái xóm ngụ cư càng về chiều "càng xơ xác, heo hút" nhà cửa "úp súp, tối om", những khuôn mặt "hốc hác u tối". Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể "nhặt" được. Thị lấy chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có "quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau". Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới "khép nép", "cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt". Tối tân hôn, "tiếng khóc tỉ tê" của những gia đình có người mới chết đói vọng đến thô thiết não nùng. Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi "dồn dập, vội vã". Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật - Pháp bắt nhổ lúa trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

        Truyện "Vợ nhặt" đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt vợ và những tình tiết xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu "tầm phơ tầm phào", Tràng đãi thị 4 bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được vợ! Nhặt được vợ nhưng hắn cũng phải liều: "Chặc, kệ!". Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn "đèo bòng". Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng "phởn phơ khác thường". Hắn "tủm tỉm cười nụ". Hai mắt "sáng lên lấp lánh". Có lúc cái mặt hắn "cứ vênh lên tự đắc với mình".

        Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông "hay đáo để". Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì, bị thị "phát đánh đét" vào lưng với câu mắng yêu: "Khỉ gió". Tràng nghển cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!". Những tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.

        Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới: "Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng". Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...". Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là "con". Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: "Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá...". Qua đó, ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai hoạ, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...". Người đọc cảm thấy ngọn đèn "vàng đục" chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh phúc ấm no.

        Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong truyện "Vợ nhặt". Bà cụ Tứ gọi là "chè khoán... ngon đáo để". Bà tự hào nói với hai con là " xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vô cùng "đầm ấm hòa hợp" hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thổ có những bữa cơm nhiểu thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ khồng bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo cám "đắng chát" mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình cảm của họ. Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ,... mà không một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh tày?

        Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người dân cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên: "Chông vợ hài". Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy "có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ". Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh "rạng rỡ hẳn lên". Vợ Tràng trở thành người đàn bà "hiền hậu đúng mực". Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy "êm ái lửng lơ". Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn "vẫn ngỡ ngàng như không phải".

        Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thây hắn đã "nên người", hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này!

        Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình "lá cờ đỏ bay phấp phới". Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện không chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.

        Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn mằn nhưng đáng quý và đáng trân trọng biết bao! cổ kim đống tây đã có ai nhặt được vợ? Cái đói do bọn Nhật, Pháp gây ra đã cướp đi tất cả tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thật được khẳng định: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết. Cái vị đời ngọt ngào và tình người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện "Vợ nhặt" mà ta trân trọng.

---/---

Với  các bài văn mẫu Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt qua nhân vật Tràng do Top lời giải sưu tầm và biên soạn trên đây, hy vọng các em sẽ có thêm những góc nhìn mới mẻ và có cái nhìn tổng quát hơn về  tác phẩm. Chúc các em làm bài tốt!

icon-date
Xuất bản : 18/08/2021 - Cập nhật : 20/11/2022