Đọc truyện ngắn Một bữa no của nhà văn Nam Cao, ta thấy tác phẩm là bức tranh chân thực phản ánh nỗi khổ cùng cực và cuộc sống đầy bi thương của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Truyện Một bữa no đã được sử dụng nhiều làm ngữ liệu ngoài sách giáo khoa ở phần đọc hiểu. Bài viết này Toploigiai sẽ nên 1 số đề đọc hiểu từ các trích đoạn trong truyện.
Nam Cao (1917–1951): là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Tên thật của ông là Trần Hữu Tri, sinh tại làng Đại Hoàng, tỉnh Hà Nam. Các tác phẩm của Nam Cao tập trung khai thác sâu sắc số phận của con người, đặc biệt là tầng lớp nghèo khổ trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Nam Cao nổi tiếng với những tác phẩm như “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, và “Đời thừa”, nơi ông phơi bày nỗi khổ đau, sự bế tắc và những mâu thuẫn nội tâm của nhân vật. Ông không chỉ miêu tả hiện thực mà còn thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, trân trọng giá trị con người ngay cả trong hoàn cảnh bi thảm nhất. Văn phong của Nam Cao sắc sảo, giàu tính triết lý và rất đời thường, góp phần định hình phong cách văn học hiện thực phê phán.
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn là bà lại hờ con. Làm như chính tự con bà nên bây giờ bà phải đói. Mà cũng đúng như thế thật. Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm tấm, tí tí giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ nhờ được một li, nó đã lăn cổ ra nó chết. Công bà thành công toi.
Con vợ nó không phải giống người. Nó có biết thương mẹ già đâu! Chồng chết vừa mới xong tang, nó đã vội vàng đi lấy chồng ngay, nó đem đứa con gái lên năm giả lại bà. Thành thử bà đã già ngót bảy mươi, lại còn phải làm còm cọm, làm mà nuôi đứa con gái ấy cho chúng nó. Hết xương, hết thịt vì con, vì cháu, mà nào được trông mong gì?
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.
(Trích Một bữa no, Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại,1943)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
- Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích: Tự sự
Câu 2: Trong đoạn trích, hoàn cảnh của bà lão được miêu tả được miêu tả qua chi tiết nào?
- Trong đoạn trích, hoàn cảnh của bà lão được miêu tả được miêu tả qua chi tiết:
+ Suốt một đêm, bà ấy hờ con/ Chồng bà chết từ lúc nó mới lọt lòng.
+ Nó đem đứa con gái lên năm giả lại bà.
+ Nuôi cháu bày năm trời...cải mả cho bố nó đã mất tám đồng.
+ Bà ốm một trận thập tử nhất sinh.
Câu 3: Tác dụng của việc sử dụng thành ngữ trong câu: “Năm ngoái ấy, còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh.”
- Tác dụng của việc sử dụng thành ngữ trong câu: “Năm ngoái ấy, còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh.” là: Sự nguy hiểm, tính mạng cực kì nguy hiểm và cận kề cái chết.
Câu 4: Anh/chị hãy nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Nam Cao.
Có thể thấy Nam Cao là một tài năng đặc biệt trong nền văn học Việt Nam, ngòi bút hiện thực đầy phong phú của mình, hướng ngòi bút vào các sáng tác đi sâu vào thế giới nội tâm của con người, khám phá và khai thác những nét đặc sắc trong tâm trí của nhân vật, miêu tả tâm lí về sự vận động phát triển diễn biến tâm lí nhân vật.
Câu 5: Anh/chị hãy nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Nam Cao.
Học sinh tự trả lời
(Tóm tắt đoạn trước: Câu chuyện kể về một bà lão có chồng mất sớm, cả đời cặm cụi nuôi con. Khi lớn lên thì đứa con trai lại bỏ bà ra đi. Vợ con trai bà sau khi chịu tang chồng đi tìm hạnh phúc mới bỏ lại con cho bà nuôi. Vì thế bà nuôi đứa cháu trong nhiều năm liền. Nhưng rồi do quá khó khăn bà đã phải bán đứa cháu gái duy nhất cho nhà bà phó Thụ làm con nuôi. Nhưng sau khi bán cháu gái thì cuộc sống của bà không mấy dễ dàng hơn. Đã nghèo mà còn ốm một trận thập tử nhất sinh, bà lâm vào tình thế đói khổ khốn. Vì thế bà nghĩ ra một kế: bà ra thăm cháu bà ở nhà bà phó, tiện thể kiếm bữa cơm)
[...]Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ. Tuy vậy mà bà vẫn phải ăn. Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao? Thức ăn không bao giờ tự nhiên chạy vào mồm […] Mấy hôm nay bà nhịn đói. Bởi thế bà lại đem con ra hờ. Bà hờ thê thảm lắm. Bà hờ suốt đêm. Bà khóc đến gần mòn hết ra thành nước mắt. Đến gần sáng, bà không còn sức mà khóc nữa. Bà nằm ẹp bụng xuống chiếu, nghĩ ngợi. Có người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. Có lẽ đúng như thế thật. Bởi vì bà lão bỗng tìm ra một kế. Bà ra đi.
[…] Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hầm hầm. Lũ con gái, con nuôi, con ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà chửi cho phải biết! Có khi bà hắt cả bát cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên:
- Mời bà phó…
Nhưng bà vừa mới há mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:
- Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!
Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quá. Mọi người đều lặng lẽ, cắm cúi, mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. Bà phó lại cạu mặt, gắt:
- Sẻ riêng cho bà ấy một cái bát, để ra cạnh mâm cho bà ấy.
Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng bà mới ăn chưa hết hai lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau, mọi nguời khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ ra hiệu cho họ vậy. Thật ra thì lệ mỗi người chỉ được ăn có ba vực cơm thôi. Mà phải ăn nhanh để còn làm. Nhưng bà lão nhà nghèo, đã quen sống vô tổ chức, làm gì hiểu trong những nhà thừa thóc, thừa tiền, lại có sự hạn chế miệng ăn như vậy? Bà đoán rằng họ khảnh ăn. No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất bằng nào cũng chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm đâu. Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Bà ăn nữa thật. Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội nốt mấy miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt nhái. Rồi nó buông bát đũa. Bà bảo cháu:
- Ăn nữa đi, con ạ. Nồi còn cơm đấy. Đưa bát bà xới cho.
Nó chưa kịp trả lời thì bà phó đã mắng át đi:
- Mặc nó! Nó không ăn nữa! Bà ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!
À! Bây giờ thì bà lão hiểu. Người ta đứng lên tất cả rồi. Chỉ còn mình bà lão ngồi ăn với bà phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì. Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:
- Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?
- Khô mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi…đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu được nữa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?
Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhiên nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn là chưa ăn. Ôi chao!…
Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà réo ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch. Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau quằn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật không bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột bà đau quằn quặn. Ăn một tí gì vào cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no” và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài học dạy lũ con gái, con nuôi:
- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!…
(Trích truyện ngắn “Một bữa no”, Nam Cao -1943, in trong “Tuyển tập truyện ngắn Nam Cao”, Nhà xuất bản Văn học, tr 143-146).
Trả lời các câu hỏi:
Câu 1. Xác định nhân vật chính trong đoạn trích?
Nhân vật chính: bà lão
Câu 2. Xác định ngôi kể trong đoạn trích?
Ngôi kể: ngôi thứ ba
Câu 3. Đoạn trích trên được kể từ những điểm nhìn nào?
Điểm nhìn có sự kết hợp giữa điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn nhân vật bà lão, bà phó
Câu 4. Nêu tác dụng của hình thức ngôn ngữ nửa trực tiếp được sử dụng trong những câu văn sau: Thật ra thì lệ mỗi người chỉ được ăn có ba vực cơm thôi. Mà phải ăn nhanh để còn làm.. Nhưng bà lão nhà nghèo, đã quen sống vô tổ chức, sẽ không hiểu trong những nhà thừa thóc, thừa tiền, lại có sự hạn chế miệng ăn như vậy. Bà đoán họ khảnh ăn. No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất bằng nào cũng chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm đâu. Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Bà ăn nữa thật…
Tác dụng
- Diễn tả được đời sống nội tâm của nhân vật bà lão: bên trong giằng xé, ấm ức, cay đắng, nhục nhã; còn bên ngoài cố gượng vì miếng ăn, nén lại lòng tự trọng do quá đói mà ăn bán sống bán chết.
- Thể hiện quan niệm, cách nhìn nhận đánh giá vừa chủ quan (lời người kể chuyện) vừa khách quan về nhân vật (lời nhân vật).
Câu 5. Anh/chị hãy nhận xét tính cách của bà phó Thụ qua các lời thoại sau?
- Sẻ riêng cho bà ấy một cái bát, để ra cạnh mâm cho bà ấy.
- Mặc nó! Nó không ăn nữa! Bà ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!
- Khô mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi…đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu được nữa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?
Nhận xét tính cách của bà phó Thụ
- Lạnh lùng, keo kiệt, hách dịch, khinh miệt người khác.
-Tàn nhẫn, độc ác – bản chất của giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam
Câu 6. Thông qua nhân vật bà lão trong đoạn trích, anh/chị hiểu như thế nào về đời sống của người nông dân lúc bấy giờ?
- Đời sống của người nông dân lúc bấy giờ
- Đói khổ, khó khăn, khốn cùng (bị cái đói truy đuổi ráo riết).
- Người nông dân bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, tha hóa, bần tiện và phải chết.
Câu 7. Câu nói của bà phó trong đoạn trích “Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!” gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
Câu nói của bà phó “Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!” gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
- Nội dung câu nói: cảnh cáo lũ người ở không cần phải ăn nhiều, nếu ăn nhiều sẽ “chết no” như bà cụ; liệu mà ăn ở; đồng thời bộc lộ bản chất của giai cấp thống trị.
- Suy nghĩ có thể theo hướng:
+ Phẫn nộ trước sự tàn nhẫn, lạnh lùng, vô nhân đạo của giai cấp địa chủ phong kiến.
+ Xót xa cho số phận người nông dân phải sống trong cảnh đói nghèo, nhục nhã, lâm vào bước đường cùng.
Câu 8. Viết đoạn văn khoảng 5- 7 câu trình bày suy nghĩ của anh/chị về tác hại của thói vô cảm trong cuộc sống.
Viết đoạn văn khoảng 4-6 câu trình bày suy nghĩ của anh/chị về tác hại của thói vô cảm
Về hình thức: đảm bảo hình thức đoạn văn 5-7 câu.
- Về nội dung: có thể theo gợi ý sau
+ Khiến con người ngày càng rời xa cuộc sống, rơi vào trạng thái cô lập
+ Không tạo lập và duy trì được các mối quan hệ xã hội.
+ Làm xói mòn nhân cách, hủy hoại các giá trị đạo đức tốt đẹp.
----------------------------------
Trên đây Toploigiai đã mang tới cho các bạn những kiến thức bổ ích qua bài Đọc hiểu Một bữa no. Hi vọng những kiến thức trên sẽ giúp các bạn đạt được kết quả cao trong học tập. Mời các bạn đến với câu hỏi tiếp theo.