logo

Cảm nhận khổ 6 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Việt Bắc của Tố Hữu là 1 trong những bài thơ hay được đưa vào trong chương trình giảng dạy văn học lớp 12. Cùng Toploigiai Tuyển chọn những bài văn hay hay nhất Cảm nhận khổ 6 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu qua đó giúp các em học tốt hơn!

Cảm nhận khổ 6 bài thơ Việt Bắc (ảnh 1)

Cảm nhận khổ 6 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - Bài mẫu 1

    Việt Bắc là một khúc tình ca nồng nàn và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của cảm hứng là tình yêu quê hương đất nước, là sức mạnh của nhân dân, là truyền thống đạo lí ân nghĩa thủy chung của dân tộc Việt Nam. Bao trùm bài thơ Việt Bắc là nỗi nhớ nồng nàn, tha thiết. Qua dòng hồi tưởng miên man của chủ thể trữ tình, cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ. Nỗi nhớ hướng về nhiều đối tượng, nhưng có lẽ tập trung nhất là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc, về người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thủy chung trong nghĩa tình để lại ấn tượng không phai mờ trong tâm trí người ra đi:

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

    “ Ta về, mình có nhớ ta…” giống như lời đưa đẩy trong đối đáp giao duyên của ca dao, dân ca. “Mình về mình có nhớ chăng, Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”… là câu hỏi tu từ có tác dụng khơi gợi và liên kết các nỗi nhớ lại với nhau một cách khéo léo, nhuần nhị.

    “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, hình ảnh hoa tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Trong tâm tưởng của những người ra đi in đậm cảnh sắc tươi xanh, tràn đầy sức sống của vùng đất mình đã gắn bó suốt một thời gian dài. Nhớ hoa cũng chính là nhớ người và ngược lại. Nỗi nhớ đọng lại trong bức tranh cảnh sắc bốn mùa của con người Việt Bắc. Tác giả đã vẽ nên bằng ngôn ngữ thơ ca một bộ tranh tứ bình về thiên nhiên Việt Bắc. Mỗi bức tranh đều có nét đẹp riêng.

    Ngòi bút tạo hình của nhà thơ đã đạt tới trình độ “thi trung hữu họa”. Ở bức tranh thứ nhất:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.

    Mùa đông Việt Bắc rực rỡ với sắc đỏ tươi nổi bật của hoa chuối rừng trên cái nền xanh trầm tĩnh của cây lá. Con người Việt Bắc hiện ra với vẻ đẹp khỏe khoắn. Hai từ “nắng ánh” khiến lời thơ như phát sáng. Vẻ đẹp con người ngời lên rạng rỡ trong tư thế vươn tới đỉnh đèo. Ta có thể so sánh mùa đông Việt Bắc trong ký ức của người ra đi khác hẳn vẻ lạnh lẽo trong thơ ca cổ điển.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”

    Mùa xuân, Việt Bắc hiện ra trong vẻ đẹp dịu dàng xao xuyến với sắc hoa mơ trắng bạt ngàn rừng núi. Người Việt Bắc hiện ra trong công việc bình dị, đời thường. Động từ “chuốt” diễn tả cái tài hoa của người lao động. Mùa xuân Việt Bắc trong thơ Tố Hữu là sự hòa điệu giữa cái thanh tao thơ mộng của đất trời với cái bình dị của con người trong cuộc sống lao động đời thường. “Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Mùa hạ, Việt Bắc rộn ràng tươi sáng với sắc vàng của rừng phách và âm thanh vủa tiếng ve. Từ “rộ” có thể xem như là nhãn tụe của câu thơ, thể hiện sự tương quan kì diệu giữa âm thanh và màu sắc, khiến cho cảnh vật có sự giao cảm. Người Việt Bắc hiện ra trong vẻ đẹp hiền hòa như một điểm nhấn sâu lắng giữa không khí sôi đọng rộn ràng của thiên nhiên mùa hạ.

“ Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

    Mùa thu, Việt Bắc hiện ra trong trẻo thanh bình dưới ánh trăng. Ở đây tác giả không miêu tả mà gợi tả không khí đất trời Việt Bắc trong mùa thu. Con người Việt Bắc hiện ra thắm thiết ân tình trong tiếng hát thủy chung của cách mạng. Có thể thấy bộ tranh tứ bình về Việt Bắc được phác họa bằng bút pháp chấm phá cổ điển. Các câu lục phác họa hình ảnh thiên nhiên, các câu bác thì phác họa hình ảnh con người. Cảnh sắc và con người đan cài hòa quyện vào nhau tạo ấn tượng với một Việt Bắc đầy sức sống. Trong bộ tranh tứ bình của Tố Hữu, cảnh nào cũng được thức dậy bằng tình yêu thương. Nếu màu sắc cổ điển thanh đạm thì dưới bút thơ Tố Hữu màu sắc phong phú đa dạng tươi sáng. Mỗi gam màu đều là một ấn tượng dành cho Việt Bắc. Nếu cổ điển, con người xuất hiện như một nét điểm xuyết cho thiên nhiên núi rừng, thì trong bộ tứ bình của Tố Hữu, con người hiện diện như trung tâm của khung hình, làm cho hình ảnh con người thêm nổi bật.

    Đoạn thơ khép lại mà còn lưu lại trong tâm trí người đọc một Tây Bắc tươi đẹp, một Tây Bắc tươi vui, thắm thiết tình người. Qua đoạn thơ, chúng ta cảm nhận được tình cảm mà Tố Hữu danh cho thiên nhiên, con người nơi rừng nối đại ngàn, đồng thời cho thấy tình nghĩa thuỷ chung son sắt của dân tộc Việt Nam, của tình đoàn kết quân dân trong cuộc chiến giành độc lập tự do của Tổ Quốc. “Việt Bắc” và nhà thơ Tố Hữu như một bản tình ca bất hủ về tình yêu thương và lòng chung thuỷ vẹn tròn.


Cảm nhận khổ 6 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - Bài mẫu 2

    Bài thơ Việt Bắc không chỉ là bản hùng ca hào sảng về chiến công, còn là bản tình ca ngoạt ngào của tình quân dân. Khổ sáu trong bài thơ kết tinh bút lực của nhà thơ và đậm tô vẻ đẹp quê hương cách mạng trong lòng người đi xuôi:

“ Ta về mình có nhớ ta

…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

    Nhân sự kiện lịch sự trọng đại của dân tộc, khi hiệp định Gionevo được kí kết mở ra giai đoạn mới của cách mạng nước ta. Năm 1954, các cơ quant rung ương Đảng dời căn cứ Việt Bắc- nơi nuôi dưỡng, chở che cán bộ, về xuôi tiếp quản thủ đô. Biết bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi. Tình cảm đó gợi cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm “ Việt Bắc” được coi là đỉnh cao thơ ca kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ.

    Nỗi nhớ, niềm thương chảy xuyên suốt bài thơ, tới khổ thơ sáu trong tâm tưởng người ra đi, khắc họa trọn vẹn nét đẹp của quê hương Việt Bắc:

“ Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

    Kết cấu đối đáp quen thuộc thường xuất hiện trong những câu hát giao duyên của “ chàng- nàng”, “ anh- nàng”…trong buổi tình tự, hẹn hò gợi bầu không gian thấm đẫm chất trữ tình, giọng điệu thiết tha, ngọt ngào. Cách xưng hô “ mình-ta” đi về trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử dựng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng bàn việc chung khiến nội dung chính trị mà không khô khan. Người ra đi trong giờ phút chia tay ở câu lục là lời ướm hỏi nhẹ nhàng về sự thủy chung của người ở lại. Đến câu bát lại là lời khẳng định hình ảnh “ những hoa cùng người” chỉ thiên nhiên và con người nơi núi rừng Việt Bắc vẫn vẹn nguyên trong tâm trí người cất bước.

    Bức tranh rừng núi Việt Bắc tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, qua đó khẳng định nghĩa tình cách mạng, khẳng định ẩm hà tư nguyên. Bức tranh tứ bình đó được phác họa bằng bốn nét mực khác nhau, gợi không gian đặc trưng của tứ quý.

Người ra đi luyến lưu cảnh vật Việt Bắc trong mùa đông:

“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Thơ xưa khi nhắc đến mùa đông thường mang tính ước lệ với “ sương sa, tuyết lở”:

“ Sương như búa bổ mòn gốc liễu

Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô”

    nhưng thơ Tố Hữu vẽ cảnh vật bằng gam màu tươi, ấm với sắc xanh, sắc đỏ hòa quyện: “ rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, nắng ánh”, giúp ta cảm nhận sức sống bình dị và mạnh mẽ mang cảm hứng văn học cách mạng. Nét chấm phá còn ghi lại hình ảnh con người với tư thế hiên ngang, tầm vóc lớn lao của người làm chủ núi rừng: “ nắng ánh dao gài thắt lưng”. Biện pháp đảo ngữ nhấn mạnh ánh nắng buổi sớm bừng sáng khi phản chiếu vào lưỡi dao người lên rừng làm nương rẫy, đậm tô sự khỏe khoắn,     vững vàng.Người đi xuôi còn nhớ núi rừng Việt Bắc độ xuân về:

“Mùa xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

    Tố Hữu từ chối những mực thước cổ xưa trở về hình tượng tươi tắn từ trang đời bước ra sắc trắng của hoa mơ. Hương sắc quen thuộc đó là nét đặc trưng của rừng núi nơi đây mang nét đẹp tinh khôi, khoáng đạt. Song hành với thiên nhiên, hình ảnh người lao động được khắc tạc sinh động qua công việc thường ngày: “ chuốt từng sợi giang”. Hành động nhẹ nhàng, nâng niu đồng thời gợi sự tỉ mỉ, cần cù của bàn tay lao động khéo léo. Không chỉ hoa cỏ, con người cũng mang nét quyến rũ riêng, mãnh liệt:

“ Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

    Động từ “ đổ” là nhãn tự của câu lục thể hiện sự tương quan kì diệu giữa thanh âm, cảnh sắc khiến cảnh vật như có hồn, sự giao cảm. Không phải “ chuyển, nhuộm”, bởi nó gợi sự thay đổi nhất loạt, bất ngờ của cảnh vật, gợi nguồn nội sinh tràn trề của cỏ cây. Hình ảnh cô gái thôn sơn giữa khung cảnh rực rỡ ấy, lặng lẽ gắn với công việc lao động gần gũi, hài hòa như điểm nhấn lắng lại giữa không khí rộn ràng của thiên nhiên.

    Sắc thu còn hiện lên rõ nét trong tâm trí người cất bước:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

    Động từ “ rọi” gợi liên tưởng luồng sáng mạnh, đúng là ánh trăng trên thượng ngàn, ở chiến khu. Trước không gian mênh mông, nên thơ “ hòa bình”, cái đẹp yên ả trong trẻo giữa đất trời mùa thu, hình ảnh con người xuất hiện. Đại từ phiếm chỉ “ai” đưa câu thơ vào cõi mộng, có thể là giọng ca người lên đèo, cô em gái hay sự hóa thân của chủ thể trữ tình, mượn thơ thể hiện lòng thủy chung với nhân dân, kháng chiến, cách mạng.

    Nhà thơ dụng công khắc họa vể đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, với sự kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa gần gũi, vừa đượm tính dân tộc, mới mẻ. Âm hưởng thiết tha, ngọt ngào khiến tư tưởng chính trị không khô cứng mà dễ đi vào lòng người. “ Việt Bắc” chính là dấu son ghi lại nghĩa tình cách mạng thủy chung giữa cuộc kháng chiến trường kì.

Cảm nhận khổ 6 bài thơ Việt Bắc (ảnh 2)

Cảm nhận khổ 6 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - Bài mẫu 3

    Nhắc đến Tố Hữu là nhắc đến một hồn thơ cách mạng đầy nhiệt huyết tuổi trẻ, một tình yêu sâu nặng với thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam. Đến với bài thơ Việt Bắc, chúng ta sẽ cảm nhận được tĩnh nghĩa quân và dân sâu nặng nơi núi rừng Tây Bắc, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ nơi đây. Ở khổ thơ thứ 6, vẻ đẹp của bức tranh tứ bình nơi núi rừng được nhà thơ khắc hoạ một cách tinh tế, đầy hấp dẫn.

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

    Mỗi bài thơ của Tố Hữu đều gắn với những sự kiện lịch sử, hoặc là chặng đường của cách mạng Việt Nam những năm tháng kháng chiến. Bài thơ Việt Bắc được ra đời nói về sự nhớ nhung khi xa cách của quân và dân vì moi người đã có khoảng thời gian dài chiến đấu bên nhau. Trong bài thơ, tình quân dân thắm thiết keo sơn được thể hiện rất sắc nét qua sự lưu luyến kẻ ở người đi. Kẻ ở chính là những người dân sinh sống tự bao đời nay ở Tây Bắc, còn người đi là những người lính cụ Hồ đã hoàn thành nhiệm vụ, kháng chiến thắng lợi và đến lúc trở về với quê nhà. Khi xa cách, tâm trí của cả “mình” và “ta” đều là sự nhung nhớ, khắc khoải không nguôi. Những kỷ niệm hiện về như những thước phim quay chậm:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

    Tố Hữu sử dụng lối xưng hô mình- ta là cách gọi hết sức gần gũi, thân mật để thể hiện sự gắn kết của quân và dân như người một nhà. Người chiến sĩ trở về quê hương nhưng trong lòng vẫn bâng khuâng xao xuyến, không biết liệu rằng những người dân nơi đó có nhớ đến mình nữa không? Bởi lẽ trong lòng những người chiến sĩ đã coi dân như anh em ruột thịt, như chính một phần cuộc sống của mình.

    Khi xa cách, trong lòng cứ mãi khắc khoải chờ mong, tâm trí cứ hiện về vói nỗi nhớ cuộn dâng. Câu thơ mang dáng dấp một câu hỏi nhưng lại không phải dùng để hỏi, và đến câu thơ tiếp theo, tác giả lại trực tiếp bày tỏ nỗi nhớ của mình. Tây Bắc hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ là hình ảnh của thiên nhiên và con người nơi đây. Cảnh vật và con người xuất hiện cung một lúc, giao hoà và quyện vào nhau tạo nên bức tranh thiên nhiên sống động. “Hoa” là biểu tượng đẹp đẽ của thiên nhiên, con người hiện lên với sư chăm chỉ cần mẫn cũng đẹp tựa như hoa. Sự sắp xếp thật khéo léo, từng câu chữ như đan quyện vào nhau và chúng ta cũng không biết rằng hoa ở đây đẹp hay con người ở đây mang vẻ đẹp tuyệt vời sánh với hoa. Bức tranh thiên nhiên của núi rừng dần dần hiên ra dưới ngòi bút tinh tế của nhà thơ:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

    “Hoa chuối” là hình ảnh tiêu biểu cho mùa Đông. Nói đến mùa Đông, người ta nghĩ ngay đến sự lạnh giá và cô đơn; là nỗi buồn hiu quạnh của một màu trắng băng tuyết bao phủ. Nhưng mùa Đông trong tâm trí nhà thơ về núi rừng Tây Bắc nơi ông từng sống lại có những khác biệt. Giữa mùa Đông lạnh giá của núi rừng, những bông hoa chuối đỏ thắm rực rỡ như những ngọn lửa sưởi ấm không gian nơi đây. Dường như mùa Đông không còn lạnh lẽo, băng giá mà thay vào đó là sự ấm áp, tươi đẹp của sắc chuối rừng. Gam màu chủ đạo trong câu thơ là màu “đỏ tươi”- một màu sắc rất đậm, rất sáng, và rất ấm- gợi cảm giác gần gũi ấm cúng cho người đọc. Thử tưởng tượng mà xem, núi rừng mùa Đông là màu xanh xám của cây lá, màu trắng đục của gió sương, nổi bật trên nền ấy là những bông hoa chuối đậm sắc ngút ngàn. Chỉ bằng vài nét chấm phá mà nhà thơ đã tài tình vẽ lên một bức tranh mùa Đông đầy tình, đầy thơ mộng. Không chỉ có thiên nhiên, con người cũng xuất hiện với một tư thế dao gài thắt lưng”.

    Con người xuất hiện với sự lao động cần cù, cần mẫn. Giữa núi đồi trùng điệp hùng vĩ, con người nhỏ nhắn nhưng lại kiên trì lao động, ánh lên hào quang của vinh quang. Người dân đi rừng luôn có một con dao thắt bên lưng, và khi ánh nắng chiếu xuống, dao phản chiếu lại màu nắng khiến không gian “ánh” lên màu rực rỡ và ấm áp. Giữa giá rét mùa Đông, thiên nhiên dẫu có khắc nghiệt dường nào thì con người vẫn hăng say lao động. Đây là một nét đẹp tinh tế của con người mà nhà thơ Tố Hữu đã khéo léo ghi lại trong những câu thơ của mình. Dường như những hồi ức tươi đẹp của núi rừng đại ngàn đang nối tiếp nhau kéo về, gợi lên những miền nhớ như hiển hiện ngay trước mắt chúng ta:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

    Khép lại những tháng ngày mùa Đông là bức tranh tươi đẹp của mùa Xuân hiện lên. Dưới ngòi bút tài hoa của người lính Tố Hữu, mùa Xuân Tây Bắc hiện lên thật đẹp làm xao xuyến lòng người. Mùa Xuân là mùa của sinh sôi nảy nở, mùa của sự sống căng tràn biếc xanh trên từng lộc lá. Trong miền ký ức yêu thương của người lính, mùa xuân là hình ảnh của những đóa hoa mơ hoa mận bung nở trắng rừng.

    Không giống như miền Nam với hoa mai vàng rực đón Tết, cũng chẳng phải đặc trưng bởi cánh đào đỏ thắm của vùng đồng bằng. Nơi đây khi mùa Xuân về là một màu trắng tinh khôi lan tỏa khắp núi đồi sông suối.

    “Nở trắng rừng” là cụm từ miêu tả trực tiếp cảnh sắc của mùa Xuân miền núi. Tấm áo trắng tinh khôi phủ kín nơi nơi bởi sắc mơ ngập tràn. Nhà thơ như đưa người đọc tới một khung cảnh thần tiên nơi hạ giới, mọi thứ đẹp tươi căng tràn. Và giữa không gian tuyệt vời ấy, con người lại hiện lên trong dáng vẻ lao động hăng say, miệt mài. Động từ “chuốt” được sử dụng trong câu thơ mang ý nghĩa rất đặc biệt. Nó là sự trau chuốt mượt mà đến độ gần như tuyệt đối của sợi giang mà con người nơi đây đang đan nón. Nó thể hiện sự tỉ mỉ đến từng chút từng chút của con người trong công việc. Người dân nơi đây dù là làm bất cứ việc gì cũng đều hăng say và cẩn thận.

    Chúng ta cảm nhận sâu sắc nét đẹp của thiên nhiên nơi đây, đồng thời thấy được tinh thần lao động và nét đẹp rạng ngời của con người Tây Bắc. Có lẽ chính vì thế mà khi xa cách, những người lính không thể nào không nhớ nhung tha thiết.

    Nếu mùa Đông có sắc đỏ hoa chuối, mùa Xuân mang sắc trắng hoa mơ thì khi bước sang mùa hạ, chúng ta được đắm mình trong những rực vàng mênh mông.

    Mùa Hè góp phần cho bức tranh thiên nhiên từ màu vàng cây phách và tiếng ve râm ran trưa hè:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

    Mùa hè khắc sâu trong tâm trí nhà thơ bởi một màu vàng óng, màu của lá phách rừng bạt ngàn như dải lụa. Tiếng ve kêu râm ran trog buổi trưa hè là âm thanh sôi động đăc trưng; dường như tiếng ve kêu tới đâu thì rừng phách trải vàng đến đó. Có lẽ bất cứ ai khi đứng trước khung cảnh này đều cảm thấy cuộc đời thật đáng sống, đáng nhớ. Mọi thứ đã trở thành quen thuôc với những người lính, giống như nơi đây chính là quê hương thứ hai vậy. Chẳng thế mà khi phải rời đi, trong lòng mỗi người đều còn nặng trĩu những tâm tư. Cũng bởi vì thế, nên người ta thường hay nói rằng, miền đất xa lạ lúc đầu chỉ là nơi xa lạ; nhưng khi gắn bó một thời gian thì tình cảm bỗng dưng kết nối lạ kỳ:

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn.

    Những người chiến sĩ đã có “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” cùng đồng bào Tây Bắc; quãng thời gian không quá dài nhưng không hề ngắn, đủ để mãi mãi nhớ về nhau như tình thân, như máu thịt. Không chỉ là sự gắn bó của dân và quâ, không chỉ là tình cảm của chiến sĩ dành cho con người nơi núi rừng mà thiên nhiên cũng trở thành tri kỷ của họ. Họ khắc ghi từng dấu ấn, từng nét đẹp của bức tranh thiên nhiên các mùa, gòi ghém cẩn thận và khoá lại nơi tận cùng của trái tim mình.

“Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

    Nếu ở những câu thơ trên, Tố Hữu nói với chúng ta về những ngày Đông, ngày Xuân và ngày Hạ; thì đến với câu thơ này, ông nói về đêm Thu với những nét tinh tế hài hoà. Sẽ thật thiếu sót nếu bức tranh tứ bình thiếu đi cảnh Thu rừng núi, bởi đây là nhân tố quan trọng gắn kết cái hồn của cả đoạn thơ. Mùa Thu được nói đến là một đêm trăng sáng, không gian thanh tĩnh với hơi thở của núi rừng trong đêm. Ánh trăng “rọi” xuống cánh rừng, xuyên qua từng tán cây, kẽ lá để chiếu soi những luồng sáng xuống mặt đất, mặt nước. Động từ “rọi” tạo cảm giác dường như ánh trăng đang cựa mình chuyển động, hoà vào với không gian của núi rừng để bừng sáng mọi thứ xung quanh. Đâu đó có tiếng hát văng vẳng trong đêm thâu với những câu từ đầy ân tình ân nghĩa sâu nặng. “Ai” là đại từ ám chỉ một cô gái nào đó của bản làng hay là từ chỉ chung cho tất cả con người của nơi này? Tiếng hát là những tình cảm yêu thương chân thành về tình yêu giữa những con người, là sự thuỷ chung son sẳt một lòng luôn hướng về nhau. Có lẽ tiếng hát đó chính là đang nói hộ lòng tác giả- một người lính thương nhớ nơi kháng chiến trường kỳ, nơi gắn bó với đồng bào dân tộc. Ánh trăng hoà bình là ánh trăng của tự do, của chiến thắng, độc lập dân tộc; là nét đẹp vẹn nguyên mà tất cả mọi người đều khao khát, kiếm tìm và bảo vệ. Câu thơ như một nét bút mang phép màu, truyền thần cho toàn bộ bức tranh khiến mọi thứ đều trở nên kỳ diệu, lung linh. Phải rất yêu thương mảnh đất Tây Bắc, rất thương nhớ những con người nơi đây thì nhà thơ mới viết nên được những câu thơ chứa chan tình cảm sâu nặng đến vậy.

    Qua đoạn thơ, chúng ta cảm nhận được tình cảm mà Tố Hữu danh cho thiên nhiên, con người nơi rừng nối đại ngàn, đồng thời cho thấy tình nghĩa thuỷ chung son sắt của dân tộc Việt Nam, của tình đoàn kết quân dân trong cuộc chiến giành độc lập tự do của Tổ Quốc. “Việt Bắc” và nhà thơ Tố Hữu như một bản tình ca bất hủ về tình yêu thương và lòng chung thuỷ vẹn tròn.

---/---

Như vậy Top lời giải đã trình bày xong bài văn mẫu Cảm nhận khổ 6 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em học tốt môn Văn!

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 18/08/2023