logo

Cảm nhận đoạn trích “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài…”

Hướng dẫn Cảm nhận đoạn trích “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài…” ngắn gọn, hay nhất. Với các bài dàn ý và văn mẫu được tổng hợp và biên soạn dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 

"Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh cánh hến của Sông Gâm , Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ. Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. 

(Trích Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012, tr.190-191).


Dàn ý Cảm nhận đoạn trích “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài…”

I. Mở bài

- “Người lái đò sông Đà” là một tùy bút rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà.

- Hình ảnh con sông Đà với hai đặc tính nổi bật là hung bạo và trữ tình được tác giả khắc họa đậm nét trong tùy bút. Nổi bật lên là vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà.

II. Thân bài

* Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông Đà

- Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” - câu văn mở đầu đoạn hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; ý lặng tờ nhắc lại trùng điệp tạo chất thơ.

- Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, kỳ thú: Cỏ gianh đồi núi đang ra những búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương.

- So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn, hư hư thực thực của dòng sông.

- Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc động trong thực và mơ.

* Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn hiến cho độc giả hình ảnh sống động, ấn tượng sâu sắc:

Cảm nhận đoạn trích “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài…”

- Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.

- Cái tĩnh hàm chứa sự bất ngờ bởi sự biến hóa liên tiếp: thuyền thả trôi, con hươu thơ ngộ vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt. Cảnh và vật đều ở trạng thái động, không chịu ép mình và đều mang hơi thở vận động của cuộc sống nhiều chiều

* Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước:

- Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà, lòng ông dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử, về tình cảm đối với cố nhân: nhắc tới đời Lí đời Trần.

- Trước vẻ đẹp hoang dại nhà văn suy nghĩ về về tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.

- Trải lòng, hóa thân vào dòng sông trong đắm đuối của tình non sông đất nước: Nhớ thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói, trôi những con đò mình nở.

III. Kết bài

Qua đoạn trích thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau chặt chẽ; thấy những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Đọc “Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.


Bài văn mẫu Cảm nhận đoạn trích “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài…”

Nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch từng cho rằng: “ Văn không linh hoạt là văn chương thấp khớp”, tác giả đề cao tính sáng tạo của tác phẩm nghệ thuật. Bởi vậy, khi đặt bút viết về đề tài sông nước- cảm hứng quen thuộc, nhà văn Nguyễn Tuân vẫn khám phá vẻ đẹp độc đáo của con sông Đà. Đoạn văn “ Con sông Đà tuôn dài tuôn dài…cổ điển trên dòng trên” trích trong tập tùy bút “ Người lái đò sông Đà” kết tinh nét đẹp trữ tình của con sông miền núi Tây Bắc và truyện ngắn “ Chữ người tử tù” giúp ta thấy nét phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống cùng với quan niệm của nhà văn Nguyễn Tuân mang thú xê dịch để thay đổi “ thực đơn các giác quan”. Nên năm 1960, sau chuyến đi thực tế gian khổ đến của tác giả về vùng núi phía tây của tổ quốc, nhà văn thu được chất vàng của thiên nhiên bất tận, đậm tô chất vàng mười của người dân lao động trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hình ảnh con sông Đà độc và lạ: “ Chúng thủy giai đông tẩu- Đà giang độc bắc lưu” chắp đôi cánh cảm hứng để tác giả đặt bút nên thiên tùy bút “ Người lái đò sông Đà”.

Nếu đoạn thượng nguồn, con sông Đà hiện lên với vẻ hung bạo, hùng vĩ thì tới hạ lưu, hình tượng con sông mang vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng. Nhà văn ngắm nhìn dòng sông ở nhiều góc nhìn để phát hiện nét đẹp toàn diện của nó. Những lần đi tàu lượn, Nguyễn Tuân có cơ hội ngắm vẻ đẹp bao quát của Đà giang: “ Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Câu văn dài, nhịp chậm, hình ảnh giàu sức gợi nhà văn khắc họa dáng sông bằng dáng tóc của thiếu nữ. Nhà văn đóng một dấu triện riêng, trong cái nhìn của tác giả sông Đà sở hữu vẻ đẹp của áng thơ là điểm sáng đậm tô nét đẹp duyên dáng của Tây Bắc- trở thành một kiệt tác.

Con sông băng mình qua bốn mùa nhưng ngòi bút nhà văn lại đậm tô màu nước của nó trong hai mùa gợi cảm nhất : mùa xuân và mùa thu. Xuân đến, nước Đà giang “ màu xanh ngọc bích” gợi sự trong trẻo, tươi sáng, rạng ngời, quý phái. Khác biệt những con sông lân cận, sông Đà không chọn màu nước “ xanh canh hến” như sông Gâm, sông Lô- màu sắc lờ lờ dở đục dở trong. Con sông Đà nổi bật giữa những con sông bạn như tính cách của nó không chấp nhận màu lỡ cỡ, lưng chừng như bao dòng chảy khác. Đến mùa thu, nước sông đổi sắc “ lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì”. Sắc màu đậm bởi màu phù sa, tôn thêm vẻ hung hãn của dòng sông mùa thác lũ chảy về ẩn chứa đầy hiểm họa. Hình ảnh sánh, nhân hóa khiến Đà giang như sinh thể có sự sống với tâm trạng sâu kín, phức tạp, không biết ngỏ cùng ai.

Nhà văn đổi điểm nhìn, nhìn con sông Đà sau chuyến ở rừng đi núi về. Lúc này, tác giả khao khát muốn tìm một chỗ thoáng đãng, bất chợt đắm say chứng kiến nét đẹp bên bờ sông Đà. Ánh nắng tháng ba đường thi “ Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” vừa gợi cái nắng mới dịu dàng, tươi mới vừa hiện lên nét thơ mộng, cổ kính, sang trọng như bước ra từ trang thơ trung đại. Bờ bãi bên sông cũng nên thơ bởi chuồn chuồn, bươm bướm dập dờn đôi cánh trên sông. Hình ảnh mang lại sự yên bình, vẻ trẻ trung, tràn đầy sức sống. Bởi vậy, nhìn thấy con sông nhà văn thấy “ vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Biện pháp so sánh khơi gợi niềm vui bừng sáng, ấm áp niềm hạnh phúc như nối dài những mộng mơ. Nguyễn Tuân thấy con sông như cố nhân: xa thì nhớ, gần thì thương. Người mà tác giả thấu hiểu tính cách như tri kỉ, người bạn cũ, gẫn gụi.

Đến những lần trên con thuyền xuôi dòng Đà giang, nhà văn có cơ hội nhìn ngắm cảnh ven sông vừa hoang sơ vừa thanh xuân. Nguyễn Tuân nhìn con sông suốt chiều dài lịch sử “ đời Lý, Trần, Lê” trước dòng thời gian vạn biến, tác giả khẳng định vẻ đẹp bất biến của dòng sông của một giai nhân không có tuổi. Hình ảnh so sánh “ hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ xưa”, nhà văn so sánh cái vô hình, không gian “ bờ sông” với cái vô hình, thời gian “ bờ tiền sử” khiến con sông như từ vạn kỷ đổ về. Đà giang mang vẻ thanh xuân, đầy sức sống qua những chi tiết “ lá ngô non nhú, búp cỏ gianh đẫm sương đêm, hươu thơ ngộ”, sự sống tươi mới, tinh khôi, thanh tân đầu ngày, đầu mùa, đầu năm mới. Sông Đà hoang sơ nhưng không không hoang lạnh, hoang vu vẫn thấp thoáng sự sống, hơi ấm đôi bàn tay gieo vãi cấy trồng.

Sông Đà còn là dòng thi ca đa sắc diện. Con sông là địa chỉ hẹn hò, gặp gỡ thi cảm của tri nhân, không chia người trước kẻ sau. Trước sau một lòng say đắm phong vị cảnh sắc quê hương.

Nhà văn tài năng thường đóng dấu ấn phong cách riêng trong nghệ thuật của mình. Vậy nên, đến truyện ngắn “ Chữ người tử tù”- dấu mốc ngòi bút Nguyễn Tuân trước cách mạng, cảnh cho chữ đậm tô phong cách của tác giả. Khi biết tâm nguyện của quản ngục, Huấn Cao đồng ý cho con chữ với sự chuẩn bị chu đáo tạo nên “ cảnh tượng xưa nay chưa từng có” ở chốn lao tù. Viết xong, tử tù đỡ viên quản ngục khuyên những lời gan ruột mà ngục quan cảm động bái lĩnh.

Nhà văn trước sau vẫn tiếp cận sự vật phương diện văn hóa thẩm mỹ với nghệ thuật lịch lãm, am tường. Khám phá những tính cách phi thường, mạnh mẽ qua cách dụng ngôn tài hoa, uyên bác. Phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn còn lưu lại trong lòng bạn đọc bởi chữ chữ đứng trên trang giấy, linh hoạt. “ Người lái đò sông Đà” và “ Chữ người tử tù” mãi là những thanh âm trong trẻo mang cách nhìn, cách thể hiện của riêng ngòi bút Nguyễn Tuân.

---/---

Trên đây là dàn ý và một số bài văn Cảm nhận đoạn trích “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài…” hay nhất dành cho bạn. Hi vọng qua dàn ý và các bài văn mẫu bạn đã có được những sự tham khảo để làm Văn tốt hơn. Chúc các bạn thành công, học tập tốt.

icon-date
Xuất bản : 23/01/2022 - Cập nhật : 27/01/2022