logo

Cảm nhận đoạn thơ "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng ..... Đi trả thù mà không sợ dài lâu"

icon_facebook

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Cảm nhận đoạn thơ “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng… Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé! 


Đoạn thơ: Họ giữ và truyền cho ta hạt…

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng 

Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói 

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân 

Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái 

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm 

Có nội thù thì vùng lên đánh bại


Cảm nhận đoạn thơ "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng ... – Mẫu 1

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thể hiện lòng yêu nước qua việc tranh luận về tuổi trẻ, về nhân sinh quan để dựng lại cả quá trình “tìm đường” và “nhận đường” của tuổi trẻ đô thị miền Nam về với con đường cách mạng của dân tộc, nhân dân. Giọng điệu trữ tình giàu chất chính luận, xây dựng chất liệu thơ giàu chất liệu hiện thực, chất liệu văn hoá và giàu tính liên tưởng. Nguyễn Khoa Điềm sử dụng linh hoạt thể thơ tự do với những cung bậc khác nhau của cảm xúc với một vốn từ ngữ giàu có vừa dân dã vừa mang tính văn hoá thời đại. Trường ca Mặt đường khát vọng là tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và của nền thơ Việt Nam thế kỉ 20. Điều này được thể hiện rõ qua đoạn thơ: "Họ giữ và... hái trái".

Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của người dân Việt Nam. Nói vẻ lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con người vô danh. Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hàng ngày và trong suốt cuộc đời họ:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng 
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói 
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân 
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái 
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm 
Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lọi cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần, vật chất và cả tình yêu đất nước của lớp lớp con người. Hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nól, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi người yêu văn chương vọng lại những vần thơ cùa Hoàng Trung Thông trong “Bài thơ báng súng”:

Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.

(Bài thơ báng súng – Hoàng Trung Thông)

Chính nhân dân đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang sử vẻ vang của dãn tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hòi, là nước mắt của nhân dân. Cũng như vậy, ta lại nhớ đến hình ảnh anh giỏi phóng quân trong bàỉ thơ “Dáng đứng việt Nam” của Lê Anh Xuân:

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt 
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng 
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn 
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng. 
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng 
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn 
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm 
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công 

(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)

Người lính đã ngã xuống nhưng tư thế chiến đấu của anh mãi mãi đi vào lịch sử. Đó là dáng đứng Việt Nam, là biểu tượng của tinh thần bất khuất, kiên trung của dân tọc Việt Nam. kẻ thù có thể giết chết họ nhưng không thể nào hủy diệt được tinh thần và lòng yêu nước của họ. Chính họ đã làm nên đất nước thiêng liêng:

Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường 
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ: 
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân. 
Tên Anh đã thành tên đất nước 

(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)

Không một dòng địa chỉ cùng chẳng có một tấm hình trước lúc hy sinh nhưng những con người ấy vẫn nguyện ra đi để bảo vệ đất đai, xứ sở. Họ nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bót ngớt mùa xuân” đến muôn đời. Để mặt đất không còn bóng giặc và trên bầu trời không còn khói lửa của chiến tranh. Chính máu, mồ hôi và nước mắt của biết bao con người đã kết tụ thành tinh anh đất nước.

Mặc dù bài thơ được viết theo lối trường ca, chất tự sự, liệt kê, khó đọc, khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong tác phẩm này xứng đáng đưa bản trường ca trở thành tác phẩm tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thân của người yêu văn chương suốt bây nhiêu lâu nay về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu đất nước và có giá trị cho đến muôn đời.

Cảm nhận đoạn thơ "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng ..... Đi trả thù mà không sợ dài lâu"

Cảm nhận đoạn thơ "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng ... – Mẫu 2

Cùng với Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Bằng Việt, người con xứ Huế Nguyễn Khoa Điềm đã làm nên một thế hệ vàng những nhà thơ trẻ trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nổi bật lên trên nền thơ của những cây bút trực tiếp cầm súng thời kì này là sự tự ý thức của tuổi trẻ về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu và sự nhận thức sâu sắc về đất nước, nhân dân qua những trải nghiệm của bản thân. Tâm tư của người trí thức tích cực tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân đã được NKĐ thể hiện trên những trang thơ của ông bằng ngòi bút giàu chất trí tuệ, chất triết luận sâu lắng. Đề tài đất nước như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn học Việt Nam bao đời nay. Ta gặp một đất nước anh hùng trong kháng chiến chống Pháp mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi, đất nước cổ kính dân gian mang hồn thu Kinh Bắc của Hoàng Cầm, đất nước hóa thân trong dòng sông xanh đầy ắp kỉ niệm trong thơ Tế Hanh. Và thật thiếu sót nếu không nhắc đến những câu thơ viết về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Bằng bài thơ “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm được một cách nói riêng để trang thơ đất nước có thêm một rung cảm thẩm mĩ mới mẻ, thể hiện rõ nhất qua trích đoạn sau:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”.

Đoạn thơ đã biểu dương, ngợi ca vai trò của lịch sử, sức mạnh lớn lao kì diệu của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong sự nghiệp dựng nước, nhân dân là người kiến tạo và bảo tồn những giá trị văn hoá tinh thần, truyền thống của dân tộc:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”

Ở đây tác giả dùng đại từ xưng hô số nhiều “họ”, chỉ nhân dân – những con người bé nhỏ, bình thường thuộc đám đông trong xã hội, chứ không phải là các cá nhân anh hùng. Với hệ thống các từ “giữ, truyền, gánh, đắp, be, dạy…” được sử dụng đan dày trong đoạn thơ ghi nhận sự đóng góp lớn lao của nhân dân đối với sự nghiệp kiến quốc. Nhân dân, bằng những việc làm cụ thể, bé nhỏ,rất đỗi bình dị mà thiết thực, ý nghĩa đã làm nên Đất Nước. Các hình ảnh gắn với chuỗi động từ này: hạt lúa, lửa, giọng nói, tên xã, tên làng, đập, bờ… một mặt tiếp tục thể hiện sự khám phá mới mẻ, độc đáo của nhà thơ về Đất Nước trong bề rộng không gian địa lí và tầng sâu của những truyền thống văn hoá; mặt khác còn khẳng định nhân dân chính là lực lượng đông đảo vừa kiến tạo bảo tồn, lưu giữ truyền thống giàu tình nghĩa, giàu tình yêu thương, cần cù lao động – đó là những giá trị văn hoá tinh thần cao quý của Đất Nước. Nhân dân cũng chính là người góp phần mở mang bờ cõi Đất Nước, khai sông, lấn biển qua mỗi chuyến di dân đầy gian khổ.

Trong cuộc đấu tranh giữ nước cũng chính là nhân dân chứ không ai khác viết lên trang sử bi tráng. Nhân dân, những con người “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ có nội thù thì vùng lên đánh bại” khẳng định đầy tự hào và sức mạnh lớn lao của nhân dân chống thù trong, giặc ngoài. Chính nhân dân đã hun đúc nên truyền thống kiên cường, bất khuất. Đó là truyền thống chứa đựng bản lĩnh của một dân tộc.

Cảm nhận đoạn thơ "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng ..... Đi trả thù mà không sợ dài lâu" (ảnh 2)

Để Đất Nước này là “Đất Nước Nhân dân” chính là sự thể hiện cảm hứng chủ đạo bao trùm lên tòan đọan trích và cả Chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đây chính là lời kết, là sự khái quát từ những gì đã được nhà thơ triển khai trên cả chiều dài của trang thơ và trong cả chiều sâu của dòng cảm hứng trữ tình- chính luận.

Nhân dân sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại. Như vậy cũng chính là đã sáng tạo ra đất nước. Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy ý từ ba câu ca dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân "Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”.

“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”.

Qua đoạn thơ tác giả đã biểu dương, ngợi ca vai trò của lịch sử, sức mạnh lớn lao kì diệu của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong sự nghiệp dựng nước, nhân dân là người kiến tạo và bảo tồn những giá trị văn hoá tinh thần, truyền thống của dân tộc. Đoạn thơ ghi nhận sự đóng góp lớn lao của nhân dân đối với sự nghiệp kiến quốc. Nhân dân, bằng những việc làm cụ thể, bé nhỏ, rất đỗi bình dị mà thiết thực, ý nghĩa đã làm nên Đất Nước. Các hình ảnh gắn với chuỗi động từ này: hạt lúa, lửa, giọng nói, tên xã, tên làng, đập, bờ… một mặt tiếp tục thể hiện sự khám phá mới mẻ, độc đáo của nhà thơ về Đất Nước trong bề rộng không gian địa lí và tầng sâu của những truyền thống văn hoá, tạo nên sự thống nhất trong cách thể hiện Đất Nước ở toàn bộ chương V; mặt khác còn khẳng định nhân dân chính là lực lượng đông đảo vừa kiến tạo bảo tồn. lưu giữ truyền thống giàu tình nghĩa, giàu tình yêu thương, cần cù lao động - đó là những giá trị văn hoá tinh thần cao quý của Đất Nước.

icon-date
Xuất bản : 07/04/2022 - Cập nhật : 18/12/2024

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads