Tổng hợp dàn ý và bài mẫu Cảm nhận của em về đoạn thơ sau: "Bác nằm trong giấc ngủ bình yên..." (khổ 3, 4) ngắn gọn, hay nhất, giúp các bạn học tốt môn Ngữ văn.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Mai về miền Nam thường trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiến chốn này
(Trích Viếng lăng Bác, Viễn Phương, Ngữ văn 9, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr. 58-59)
a. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Viễn Phương.
+ Viễn Phương (1928 - 2005) là một nhà thơ tiêu biểu của miền Nam, một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
- Giới thiệu khái quát về bài thơ Viếng lăng Bác: Bài thơ Viếng lăng Bác in trong tập thơ “Như mây mùa xuân” (1978) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Viễn Phương.
- Giới thiệu đoạn trích: Là dòng cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng và tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác
b.Thân bài
* Cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng:
- Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác.
- Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền.
- Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Trăng với Bác đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để giữ giấc ngủ ngàn thu cho Người.
=> Chỉ có thể bằng trí tưởng tượng, sự thấu hiểu và yêu quí những vẻ đẹp trong nhân cách của Hồ Chí Minh thì nhà thơ mới sáng tạo nên được những ảnh thơ đẹp như vậy!
- Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”.
+ “Trời xanh” trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực đó là hình ảnh thiên nhiên mà chúng ta hằng ngày vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng.
+ Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng. Nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Bác sống như trời đất của ta”, bởi Bác đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc.
- Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau xót và nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi của Bác – “ Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
+ “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận trong đáy sâu tâm hồn mình: nỗi đau uất nghẹn tột cùng không nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau riêng tác giả mà của cả triệu trái tim con người Việt Nam.
+ Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả mâu thuẫn. Cảm giác nghe nhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Như vậy, giữa tình cảm và lý trí có sự mâu thuẫn. Con người đã không kìm nén được khoảnh khắc yếu lòng. Chính đau xót này đã làm cho tình cảm giữa lãnh tụ và nhân dân trở nên ruột già, xót xa. Cảm xúc đau đớn này, vô vọng này đã từng xuất hiện trong bài thơ của Tố Hữu:
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm…
Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót. Nó chính là nguyên nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài thơ.
* Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác:
- Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Namra thăm Bác thì trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
+ Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt.
+ Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng.
+ Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ.
+ Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
- Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở bên Người trong thế giới của Người:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
+ Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên“con chim”, ”đóa hoa”, ”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả.
+ Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếnghót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng.
+ Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người.
Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác.
c. Kết bài
- Nội dung: Niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ với Bác.
- Nghệ thuật:
+ Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào.
+ Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mong ước.
Trong bài thơ Viếng lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã có những câu thơ vô cùng xúc động và đong đầy tình cảm khi vào trong lăng và trước khi rời lăng. Thật vậy, đó là hai khổ thơ 3 và 4 trong bài:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm cả n chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu trốn này"
Câu thơ "Bác nằm trong giấc ngủ bình yên" gợi ra một khung cảnh bình yên mà vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc đã đi sâu vào giấc ngủ vĩnh hằng cùng trời đất. Cách nói giảm nói tránh của tác giả giúp cho người đọc cảm nhận được sự bình yên và bất tử cùng trời đất của Bác thay vì cái chết. Bác đã mãi mãi đi vào giấc ngủ bình yên, đi vào trời đất và tư tưởng của Người vẫn luôn làm ngọn đèn soi đường chỉ lối cho phương hướng của dân tộc VN. Hình ảnh "giữa một vầng trăng sáng dịu hiền" có hai cách hiểu. Một là hình ảnh tả thực cho ánh sáng bên trong lăng, hai là tác giả muốn biểu thị sự vĩnh hằng của Bác khi Bác ra đi và vẫn luôn đồng hành cùng với trời đất, những hình tượng thiên nhiên bất diệt như "trăng". Từ "dịu hiền" là một tính từ gợi khung cảnh bình yên trong lăng và tình cảm chân thành của nhà thơ khi chứng kiến khung cảnh trong lăng. Hình ảnh "trời xanh là mãi mãi" ở câu thơ thứ 3 gợi ra sự bất tử mãi mãi của Bác cùng với thiên nhiên, vũ trụ. Khi miêu tả Bác, nhà thơ sử dụng những hình ảnh thiên nhiên bất tử như "vầng trăng, trời xanh" để nói về Người cùng với tất cả sự kính yêu, thương nhớ. Tiếp theo, câu thơ "Mà sao nghe nhói ở trong tim!" như một lời cảm thán tiếc nuối, đau lòng của nhà thơ đối với sự ra đi của Bác. Dù nhà thơ đã tự nhủ rằng Bác vẫn luôn tồn tại cùng trời đất, cùng dân tộc nhưng sự ra đi của Bác vẫn là sự mất mát vô cùng lớn đối với người dân, giống như sự ra đi của một người cha vĩ đại trong gia đình dân tộc VN vậy. Tiếp theo, khổ thơ thứ 4 đã thể hiện được những sự lưu luyến, bịn rịn của nhà thơ trước khi rời khỏi lăng. Cụm từ "thương trào nước mắt" thể hiện một nỗi buồn thương mãi mãi khôn nguôi trong lòng tác giả đối với sự ra đi của Bác và việc sắp phải xa Bác. Khi sắp phải trở về miền Nam, tâm trạng của nhà thơ như tâm trạng của 1 người con sắp phải xa cha, đau buồn vô cùng. Tiếp theo, tác giả dùng điệp ngữ "muốn làm" để thể hiện khát vọng muốn được hóa thân vào những thứ bé nhỏ để được mãi ở bên Bác. Những hình ảnh bình dị như "con chim hót, đóa hoa tỏa hương" thể hiện được sự khát khao công hiến, muốn được dâng hiến cho Bác. Chao ôi, đây là một ước mơ vô cùng bình dị mà lớn lao của tác giả. Nhưng quan trọng hơn, tác giả muốn được làm "cây tre trung hiếu". Cây tre trung hiếu dường như là hình ảnh của người dân VN với những phẩm chất bình dị, kiên cường, trung hiếu. Dường như, tác giả khao khát được hóa thân vào những thứ bình dị để được mãi mãi ở bên Bác, được Bác soi sáng cho con đường đi của dân tộc VN. Những cảm xúc của tác giả là những cảm xúc vô cùng chân thực, bình dị mà cao đẹp, đó là tâm trạng của 1 người con trước vị cha già kính yêu của dân tộc. Tóm lại, hai khổ thơ cuối chính là tâm trạng kính trọng, yêu thương và thương nhớ của một người con miền Nam lần đầu ra thăm lăng Bác đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài văn xuất sắc được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình ghi lại tình cảm thành kính, sâu lắng của nhà thơ khi hòa vào dòng người đang vào viếng lăng Bác. Qua đó bài thơ được xem là tiếng nói nỗi niềm tâm sự của nhân dân giành cho Bác. Đặc biệt, những tình cảm ấy lại chan chứa và dạt vào ở hai khổ thơ cuối.
Hai khổ cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, réo rắt như tấm lòng tha thiết yêu mến của nhà thơ với Hồ Chủ tịch. Bằng những ngôn từ ẩn dụ đặc sắc, từ ngữ bình dị mà giàu sức gợi, câu thơ đã khơi gợi trong lòng người đọc những rung động sâu sắc và đáng quý...
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt mọi người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác mất thật rồi sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà! Suốt bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, bây giờ đất nước đã bình yên, Bác phải được nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác, lúc nào cũng có vầng trăng bên cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tù đày, đến “cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi “nguyên tiêu”…Tuy vậy, Bác chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì “trong tù không rượu cũng không hoa”, khi thì “việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên, vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm. Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Nhìn Bác ngủ ở đấy thật bình yên, nhưng có một sự thật dù đau lòng cách mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thật sự ra đi mãi mãi.
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, không bao giờ chấm dứt. Dù lí trí vẫn luôn trấn an lòng mình rằng Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi mãi như màu xanh thanh bình trên nền trời Tổ quốc độc lập nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng. Một từ “nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lí lẽ, mọi lập luận lí trí. Bác như trời xanh, Bác là mãi mãi, Bác vẫn sống trong tâm tưởng mỗi chúng ta, Bác mãi hiện diện trên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nên đất nước này. Nhưng mà Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong cuộc đời thường này. Mất Bác, cái thiếu vắng ấy liệu có thể nào bù đắp được? Tổ quốc ta đã thật sự không còn Bác dõi theo từng bước chân, không còn được Bác nâng đỡ mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Cả đàn con Việt Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác như một cái gì đó thật vĩ đại, không thể xoá nhoà. Dù Bác ra đi thật sự rồi nhưng những điều Bác đã làm vẫn sẽ đọng lại trong tâm hồn, hình ảnh Bác vẫn tồn tại trường kì trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
Cuối cùng dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng Bác để ra về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt đầy xúc động:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một tiếng “thương của miền Nam” lại vang lên, gợi về miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong trái tim người. Một tiếng “thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác. Thương Bác lắm, nước mắt trào ra, thật đúng là tình thương của người Việt Nam, vô bờ bến và rất thật.
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Cùng với nỗi niềm yêu thương vô hạn, tác giả nói lên muôn vàn lời tự nguyện. Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy. Ước chi ta có thể biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để mãi mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ lòng ta với Bác. Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác hay một cây tre trong hàng tre xanh xanh Việt Nam tỏa bóng mát dịu dàng quê hương của Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ an giấc hơn. Đây cũng chính là nguyện ước chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm lăng Bác. Bác ơi! Bác hãy ngủ lại bình yên nhé, chúng cháu về miền Nam tiếp tục xây dựng Tổ quốc từ nền móng Bác đã tạo ra đây! Câu thơ trầm xuống để kết thúc, ngừng lặng hoàn toàn…
Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc sắc, giúp biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. Bài thơ viết theo thể tám chữ, trong đó có xen một vài câu bảy và chín chữ. Nhiều hình ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài đời thực đã được ẩn dụ, trở thành một cách thể hiện cảm xúc thành kính của tác giả. Nhịp thơ của bài linh hoạt, lúc nhanh là biểu hiện cho ước nguyện đền đáp công ơn Bác, lúc chậm là lúc thể hiện lòng thành kính với Bác. Giọng điêu của bài trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ bình dị mà cô đúc.
Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu ra đi. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng đất nước ta có hoà bình như ngày hôm nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, như vậy chúng ta cần phải biết xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Thơ Viễn Phương bình dị, đằm thắm mang đậm tính cách Nam Bộ. Tuy đến sau trong đề tài thơ về Bác do điều kiện, hoàn cảnh: là người con miền Nam, cầm súng ở ngoài tiền tuyến… nhà thơ Viễn Phương đã để lại bài thơ “Viếng lăng Bác” độc đáo, có sức cảm hóa sâu sắc bởi tình ý đẹp, bởi lời hay. Đặc biệt ở hai thơ cuối thể hiện sâu sắc và cảm động tinh thần kính yêu lãnh tụ và ý nguyện muốn được dâng hiến đời mình bồi đắp thêm cho vẻ đẹp của đất nước:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”.
Đã từ rất lâu, cũng như các chiến sĩ và đồng bào miền Nam xa xôi, Viễn Phương luôn khao khát được viếng thăm lăng Bác, được trở về với người cha già vĩ đại. Nhưng cuộc chiến kéo dài, kẻ thù còn ngoan cố nên đến sau ngày đất nước giải phóng, ông mới có dịp thực hiện ước nguyện ấy.
Tác giả đến với lăng Bác trong tâm trạng bùi ngùi, vừa cảm thương, tiếc nuối vì người đã ra đi mãi mãi vừa cảm thấy tự hào, thỏa nguyện vì đã được trở về với tinh thần vĩ đại của dân tộc, trở về với nguồn sức mạnh thiêng liêng. Bước vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”.
Khổ thơ được bắt đầu với việc tả thực hình ảnh của Bác. Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận như Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Tất cả gợi nên một khung cảnh thiêng liêng, vô cùng thành kính. Sự tĩnh mịch đến phi thường, không âm thanh, chỉ có ánh sáng, đủ sức đưa con người đi vào tâm tưởng.
Cái ranh giới mỏng manh giữa sự hiện hữu và hư vô càng khiến cho không gian trở nên huyền ảo. Vầng trăng tỏa sáng lung linh quanh linh cữu của Người, cùng đồng hành với người trong thế giới siêu nhiên. Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác.
Trăng đối với Bác thân thiết như người bạn, người đồng chí trên mọi nẻo đường. Trong thơ Bác, ngoài tình yêu nước sâu nặng, tình thương người tha thiết, người chiến sĩ yêu nước Hồ Chí Minh đã hướng tâm hồn mình vào thiên nhiên tạo hóa với bao tình yêu thương nồng hậu. Hình ảnh vầng trăng, biểu tượng của thiên nhiên rộng lớn và tươi đẹp luôn ăm ắp trong thơ Người lúc nhàn hạ, thảnh thơi:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.
(Cảnh khuya - Hồ Chí Minh)
Hay những lúc trên chiến trường, việc quân khẩn cấp, trăng cũng tìm đến với Người mời gọi, rủ rê:
“Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau”.
(Tin thắng trận - Hồ Chí Minh)
Ngay những lúc ngồi trong tù, trăng trở thành người bạn tâm tình, thấu hiểu và sẻ chia nỗi lòng của Bác:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
(Nhật kí trong tù - Hồ Chí Minh)
Rõ ràng dù trong bất kì hoàn cảnh nào, tình cảm của Bác đối với vầng trăng vẫn luôn tha thiết. Và cũng chính ánh trăng đẹp cũng tăng thêm niềm tin, niềm lạc quan của Bác đối với nhiệm vụ cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc đầy cam go. Cho nên nghĩ về Bác, Viễn Phương hình dung những chiếc bóng đang tỏa sáng Bác như vầng trăng dịu hiền phủ chiếu, ấp ủ Bác chắc hẳn xuất phát từ hiện thực ấy.
Với niềm cảm xúc chất ngất, Viễn Phương lại liên tưởng Bác là: “trời xanh”. Trong toàn bài thơ “Viếng Lăng Bác”, đây lần thứ hai Viễn Phương đã vận dụng hình ảnh ẩn dụ ấy mới tài tình, mới chính xác. Bởi vì, trong thế giới tự nhiên bao la vô tận, “trời xanh” có khả năng bao trùm vạn vật như muốn che chở, bảo vệ cho muôn vật, muôn loài. “Trời xanh” còn có công đem lại cho muôn loài ánh sáng và sức sống. Bác Hồ của chúng ta cũng vĩ đại như thế.
Cả cuộc đời Người, từ lúc còn là thanh niên trẻ cho đến khi da mồi tóc bạc, Bác hi sinh cả vì nền độc lập dân tộc Việt Nam thân yêu này. Biết bao năm bôn ba hải ngoại, biết bao lần gối tuyết nằm sương, bao phen bị giam cầm xiềng xích, Bác vẫn quyết định chịu đựng, vượt qua để ánh sáng cách mạng rọi soi khắp nhân dân, để đập tan mọi gông cùm khổ ải cho non sông Việt nam thống nhất mọi nhà. Cho nên việc nhà thơ ví Bác như “trời xanh” là thật đúng và mãi mãi đúng với dân tộc ta.
Tuy nhiên, khi đọc kĩ lại câu thơ: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”, ta nghe như có cái gì đó vừa chùng xuống, có gì làm nghèn nghẹn trong lòng ta. Cảm xúc ấy đã được chứng thực khi đọc đến câu thơ:
“Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Như vậy mặc dù dòng cảm xúc, sự liên tưởng của Viễn Phương đang thật dạt dào, phong phú, đang say sưa ngất với niềm sung sướng, tự hào niềm tôn kính dâng trào khi được ở bên Bác, thỏa tấm lòng “Miền nam mong Bác nỗi mong cha”. Thì giờ đây nhà thơ không thể tránh khỏi một sự thật đau lòng, một sự thật mà nhân dân cả nước Việt nam phải chịu đựng trong ngày 2/9/1969:
“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”
(Bác ơi! - Tố Hữu)
Cảm giác ấy bất chợt ập đến khiến nhà thơ nghe “nhói ở trong tim”. Động từ “nhói” mang đậm phong cách Nam bộ. Đặt trong giọng thơ đầy xót xa, thương nhớ nghe gần gũi, chân thật đã miêu tả thật rõ nét cảm xúc đau đớn tột cùng của tác giả khi đứng trước hiện thực đau lòng: Bác đã ra đi mãi mãi. Và ý thơ ấy của Viễn Phương đã giúp ta hình dung hình ảnh nhà thơ đang đứng thật trang nghiêm, cúi đầu kính cẩn tưởng niệm Bác đã dành cho dân tộc thân yêu này bằng tấm lòng yêu thương, kính phục, tri ân thiết tha, sâu thẳm.
Thương yêu Bác thật nhiều mà gần gũi chẳng được bao nhiêu nên phút giây chia tay thật bùi ngùi lưu luyến. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”.
Vẫn với cách diễn đạt đậm chất Nam Bộ “thương trào nước mắt” cùng điệp ngữ “muốn làm” vận dụng như một điệp khúc, lại được dồn đặt lên đầu ba câu thơ liên tiếp, các câu thơ đã trở thành đỉnh cao của mạch cảm xúc, giúp ông gửi trọn mọi tâm tư tình cảm yêu thương, kính phục dành cho Bác. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
Chính vì yêu thương, kính phục, thấy xót xa, bịn rịn không nỡ rời đi, nhà thơ đã ước nguyện làm “con chim” yêu thương “hót quanh lăng”, muốn làm “đóa hoa tỏa hương” tỏa hương quanh lăng, muốn “làm cây tre” trung hiếu trọn đời yêu thương tôn kính vị cha già của nhân dân.
Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng.
Nếu ở khổ thơ đầu là một hàng tre như những tầng lớp nhân dân đang quây quần bên Bác, cùng Bác sống, cùng Bác đấu tranh để gìn giữ cho nền hòa bình, độc lập của dân tộc thì khổ thơ cuối chỉ là “cây tre” biểu trưng cho nhà thơ, cho nhân cách nhà thơ, cho ý chí kiên trung, bất khuất của dân tộc.
Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta đối với Bác.
Ngày nay, yêu kính, nhớ ơn Bác, toàn dân, toàn Đảng ra sức bồi đắp, xây dựng, phát triển đất nước. Riêng học sinh chúng em luôn tâm niệm lời nhắn nhủ của Bác “Non sông Việt Nam có tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước đến đài vinh quang sánh vai với cường quốc năm châu được hay không chính nhờ phần lớn công học tập của các cháu” mà cố gắng chăm ngoan ra sức học tập, rèn luyện tốt nhân cách đạo đức, mai sau góp công sức nhỏ bé của mình vào việc xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước, đền đáp phần nào công lao vĩ đại của Bác.
Bằng những cảm xúc trào dâng, cách diễn đạt thật chân thật, tha thiết, với cái nhìn hình ảnh ẩn dụ đẹp đẽ, bài thơ “Viếng lăng Bác” nói chung, hai khổ thơ cuối nói riêng là tình cảm yêu thương, kính trọng của nhà thơ, cũng là của đồng bào cả nước đối với Bác.
Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ - biểu tượng vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.
Trong bài thơ Viếng lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã có những câu thơ vô cùng xúc động và đong đầy tình cảm khi vào trong lăng và trước khi rời lăng. Thật vậy, đó là hai khổ thơ 3 và 4 trong bài:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu trốn này"
Câu thơ "Bác nằm trong giấc ngủ bình yên" gợi ra một khung cảnh bình yên mà vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc đã đi sâu vào giấc ngủ vĩnh hằng cùng trời đất. Cách nói giảm nói tránh của tác giả giúp cho người đọc cảm nhận được sự bình yên và bất tử cùng trời đất của Bác thay vì cái chết. Bác đã mãi mãi đi vào giấc ngủ bình yên, đi vào trời đất và tư tưởng của Người vẫn luôn làm ngọn đèn soi đường chỉ lối cho phương hướng của dân tộc VN. Hình ảnh "giữa một vầng trăng sáng dịu hiền" có hai cách hiểu. Một là hình ảnh tả thực cho ánh sáng bên trong lăng, hai là tác giả muốn biểu thị sự vĩnh hằng của Bác khi Bác ra đi và vẫn luôn đồng hành cùng với trời đất, những hình tượng thiên nhiên bất diệt như "trăng". Từ "dịu hiền" là một tính từ gợi khung cảnh bình yên trong lăng và tình cảm chân thành của nhà thơ khi chứng kiến khung cảnh trong lăng. Hình ảnh "trời xanh là mãi mãi" ở câu thơ thứ 3 gợi ra sự bất tử mãi mãi của Bác cùng với thiên nhiên, vũ trụ. Khi miêu tả Bác, nhà thơ sử dụng những hình ảnh thiên nhiên bất tử như "vầng trăng, trời xanh" để nói về Người cùng với tất cả sự kính yêu, thương nhớ. Tiếp theo, câu thơ "Mà sao nghe nhói ở trong tim!" như một lời cảm thán tiếc nuối, đau lòng của nhà thơ đối với sự ra đi của Bác. Dù nhà thơ đã tự nhủ rằng Bác vẫn luôn tồn tại cùng trời đất, cùng dân tộc nhưng sự ra đi của Bác vẫn là sự mất mát vô cùng lớn đối với người dân, giống như sự ra đi của một người cha vĩ đại trong gia đình dân tộc Việt Nam vậy. Tiếp theo, khổ thơ thứ 4 đã thể hiện được những sự lưu luyến, bịn rịn của nhà thơ trước khi rời khỏi lăng. Cụm từ "thương trào nước mắt" thể hiện một nỗi buồn thương mãi mãi khôn nguôi trong lòng tác giả đối với sự ra đi của Bác và việc sắp phải xa Bác. Khi sắp phải trở về miền Nam, tâm trạng của nhà thơ như tâm trạng của 1 người con sắp phải xa cha, đau buồn vô cùng. Tiếp theo, tác giả dùng điệp ngữ "muốn làm" để thể hiện khát vọng muốn được hóa thân vào những thứ bé nhỏ để được mãi ở bên Bác. Những hình ảnh bình dị như "con chim hót, đóa hoa tỏa hương" thể hiện được sự khát khao công hiến, muốn được dâng hiến cho Bác. Chao ôi, đây là một ước mơ vô cùng bình dị mà lớn lao của tác giả. Nhưng quan trọng hơn, tác giả muốn được làm "cây tre trung hiếu". Cây tre trung hiếu dường như là hình ảnh của người dân Việt Nam với những phẩm chất bình dị, kiên cường, trung hiếu. Dường như, tác giả khao khát được hóa thân vào những thứ bình dị để được mãi mãi ở bên Bác, được Bác soi sáng cho con đường đi của dân tộc VN. Những cảm xúc của tác giả là những cảm xúc vô cùng chân thực, bình dị mà cao đẹp, đó là tâm trạng của 1 người con trước vị cha già kính yêu của dân tộc. Tóm lại, hai khổ thơ cuối chính là tâm trạng kính trọng, yêu thương và thương nhớ của một người con miền Nam lần đầu ra thăm lăng Bác đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
“Ôi lòng bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”
(“Theo chân Bác” – Tố Hữu)
Những dòng thơ của Tố Hữu cho ta thấy lòng kính yêu thiêng liêng dành cho vị lãnh tụ vĩ đại – Hồ Chí Minh. Với một lòng nồng nàn biết ơn và yêu thương không thua kém gì Tố Hữu, nhà thơ Viễn Phương cũng viết nên những vần thơ tuyệt vời nhân dịp lần đầu tiên ghé thăm lăng Bác. Viễn Phương mang một phong cách thơ độc đáo khi chất thơ vừa giàu chất liệu tâm trạng vừa giàu chất suy tưởng, vừa hiện thực lại vừa trữ tình, vừa hồn nhiên vừa mơ mộng. Bài thơ “Viếng lăng Bác” là mạch cảm hứng dựa trên trục thời gian hình thành một thứ nhật ký, một cuộc viếng thăm cũng là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn. Bài thơ ca ngợi công ơn của Bác Hồ đồng thời thể hiện lòng thương tiếc, kính yêu và biết ơn trước Bác - niềm kính yêu vô bờ. Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương của nhà thơ đối với lãnh tụ của dân tộc bằng ngôn ngữ tinh tế, cảm xúc nhất, đặc biệt là ở hai khổ thơ cuối:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”.
Đặt chân bước đến lăng Bác, đứng trước di hài người mình luôn kính yêu, trái tim nhà thơ trào dâng cảm xúc nghẹn ngào không thể kìm nén, ông đặt bút viết bốn câu thơ:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Một lần nữa ta lại thấy phép nói giảm, nói tránh xuất hiện trong bài thơ của Viễn Phương. Một “giấc ngủ bình yên” đối với thi sĩ như lời tự an ủi bản thân mình về sự ra đi của Bác. Trong lòng Viễn Phương, bác vẫn chưa từng ra đi, Người chỉ nằm ngủ với khuôn mặt thật hiền. Bằng tài hoa của mình, nhà thơ tái hiện chân thực trước mắt người đọc khung cảnh đầy xúc động: Bác nằm trong lăng, gương mặt thân thương của Bác trở nên hồng hào, dịu hiền như vầng trăng dưới ánh đèn hồng mờ ảo. Viễn Phương đề cập tới hai hình ảnh “trời xanh” và “vầng trăng” như một phép ẩn dụ cho tình cảm nhân dân dành cho Bác, cũng như vĩnh viễn hóa sự tồn tại của Bác, Bác không hề mất đi, Bác vẫn hiện diện với nhân dân qua các ánh trăng và bầu trời. Cảm xúc ngày một dâng trào, rồi bộc ra thành lời bởi cặp quan hệ từ “vẫn biết” – “mà sao”, câu thơ nghe thật chua xót làm sao. Nó thể hiện rằng, dù biết sự thật là Bác đã ra đi mãi mãi, chỉ còn hiện thân bởi “trời xanh” nhưng mà nhà thơ vẫn không chấp nhận được, vẫn luôn đau đáu trong lòng tới mức hình thành nỗi đau “nghe nhói ở trong tim”.
Cảm giác “nghe nhói ở trong tim” của Viễn Phương là cảm giác rất thực với tư cách giữa con người với con người, nghĩa là bình đẳng như nhau trước lượng trời hạn hẹp. Điều đó nói lên Hồ Chí Minh dù vĩ đại, Hồ Chí Minh vẫn là con người. Và là con người nên ai rồi cũng sẽ phải lìa xa nhân thế, nhưng vì là Hồ Chí Minh, nên Người đã ra đi một cách vĩ đại. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói” nhấn mạnh niềm đau xót tột cùng của nhà thơ trước thực tại Bác không còn nữa. Rồi nghĩ đến ngày mai phải trở về, xa Bác, nỗi xúc động của tác giả cũng như những người con miền Nam bật lên thành tiếng nấc vỡ òa:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Tới đây ta thấy như những kìm nén của Viễn Phương đã không thể tiếp tục gắng gượng được nữa. Nhà thơ đành phải thể hiện tất cả bằng những giọt nước mắt tiếc thương. Lời thơ vang lên đầy nức nở, nghẹn ngào. Niềm khát khao chân thành muốn ở gần Bác của ông được bộc lộ mãnh liệt bằng phép điệp từ “muốn làm”. Viễn Phương nguyện làm chú chim nhỏ để hiến dâng tiếng hát líu lo cho lăng Bác mỗi ngày. Nhà thơ tha thiết muốn được hóa thành đóa hoa tỏa mùi hương thơm ngát cho Người. Thi nhân muốn làm cây tre thành kính, tôn nghiêm như người lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Viễn Phương muốn làm con chim để hiến dâng tiếng hót lên lăng Bác, làm cây tre thành kính, tôn nghiêm như người lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Đó đều là những hình ảnh ẩn dụ chỉ những gì tinh túy tốt đẹp của thiên nhiên, thể hiện ước nguyện xúc động của nhà thơ và toàn thể dân tộc: Muốn ở bên, canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Người.
>>> Xem thêm: Viết đoạn văn cảm nhận khổ 4 bài Viếng lăng Bác
---/---
Thông qua dàn ý và một số bài văn mẫu chủ đề Cảm nhận của em về đoạn thơ sau: "Bác nằm trong giấc ngủ bình yên..." tiêu biểu được Top lời giải tuyển chọn từ những bài viết hay, xuất sắc nhất. Mong rằng các em sẽ có khoảng thời gian vui vẻ và hữu ích khi học môn Văn!