logo

Cảm nhận của em về 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên ngắn nhất

Tuyển chọn những bài văn hay Cảm nhận của em về 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên ngắn nhất. Với những bài văn mẫu đặc sắc, chi tiết dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 


Dàn ý Cảm nhận của em về 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên ngắn nhất

1. Mở Bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Du và đoạn trích “Trao duyên”.

- Nêu nội dung chính của 12 câu thơ đầu trong đoạn trích “Trao duyên”.

2. Thân Bài

a. Hai câu thơ đầu

-  Thúy Kiều nhờ cậy Thúy Vân nối duyên với Kim Trọng.

-  Lời nói, hành động trang trọng (từ “cậy”, “lạy”, “thưa”) nhưng cũng mang sắc thái nài ép Thúy Vân nhận lời giúp đỡ.

b. Sáu câu thơ tiếp theo

- Thúy Kiều giãi bày nguyên nhân dẫn đến việc nhờ cậy Thúy Vân giúp mình. Đó là sự dang dở trong tình yêu với Kim Trọng: “Giữa đường đứt gánh tương tư”.

-  Hình ảnh ẩn dụ “gánh tương tư”: Chỉ tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng.

-  Nàng chia sẻ với em gái về câu chuyện tình yêu của mình. Kể từ khi gặp Kim Trọng, hai người đã nảy sinh tình cảm cùng thề nguyền, đính ước nhưng bỗng nhiên sóng gió xảy ra với gia đình Kiều, nàng đành hi sinh chữ “tình” để làm tròn chữ “hiếu” với cha mẹ.

c. Bốn câu cuối

- Thúy Kiều thuyết phục Thúy Vân bằng những lí lẽ xác đáng. Nàng nhắc đến “ngày xuân”, tuổi trẻ của Thúy Vân vẫn còn dài và nhắc đến tình nghĩa chị em máu mủ khiến Thúy Vân không thể từ chối việc nàng cậy nhờ.

-  Dù cho bản thân mình có “thịt nát xương mòn” thì Kiều vẫn vui vẻ, “ngậm cười” nơi chín suối. Nàng quả là người con gái sống tình nghĩa và có đức hi sinh.

- Thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” được Nguyễn Du sử dụng tài tình và khéo léo.

- Giọng điệu xót xa, đau đớn.

3. Kết Bài
- Nêu cảm nhận riêng của bản thân về 12 câu thơ đầu.

- Khẳng định giá trị của 12 câu thơ đầu trong đoạn trích “Trao duyên”.


Cảm nhận của em về 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên ngắn nhất - Bài mẫu 1

       Cả cuộc đời trải qua biết bao thăng trầm sóng gió, Nguyễn Du đã đúc kết kinh nghiệm quý báu làm nên tiếng vang lớn cho hậu thế qua tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi là Truyện Kiều. Dưới ngòi bút tài hoa, một xã hội thê lương tàn bạo bị chi phối bởi đồng tiền, đẩy con người đến tận cùng đau khổ được lột tả khéo léo thông qua thân phận người phụ nữ đó là nàng Thúy Kiều. “Trao duyên”, tuy chỉ là đoạn trích ngắn nhưng đã phản ánh những bất hạnh chân thực nhất trong cuộc đời của Thúy Kiều. Đây là đoạn trích vô cùng ấn tượng và đặc sắc trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du.

       Thúy Kiều với Kim Trọng, một mối tình giữa quân tử và giai nhân tưởng đẹp đẽ nhưng cũng chỉ là hoa trong gương, trăng dưới nước. Gia biến ập đến, nàng Kiều phải buộc lòng từ bỏ đoạn duyên thề hẹn chưa kịp “phỉ nguyền” với Kim Trọng để đi lấy Mã Giám Sinh.

Người đâu gặp gỡ làm chi

Trăm năm biết có duyên gì hay không?

       Vì đạo hiếu, Kiều bán mình chuộc cha thế nhưng nghĩ đến người mình yêu lại không đành lòng để chàng đau đáu ngóng trông, lại đành lòng trao duyên cho Thúy Vân. Đó là nỗi đau thương cắt từng khúc ruột, nỗi đau âm ỉ chua xót trải dọc suốt 12 câu đầu của đoạn trích “Trao duyên”. Mở đầu đoạn, khung cảnh trở nên não nề và trầm lắng khi Thúy Kiều mở lời cậy nhờ Thúy Vân:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

       Thúy Kiều, trên cương vị một người chị sao có thể cậy nhờ, lạy thưa với em? Xã hội thời xưa rất coi trọng tôn ti nhưng Nguyễn Du lại để Thúy Kiều sử dụng kính ngữ với Thúy Vân, đó là dụng ý vô cùng tài hoa của tác giả. Nguyễn Du sử dụng từ “Cậy” gửi gắm trong đó là sự tin tưởng, trân trọng và cả lòng biết ơn của Thúy Kiều đối với em gái khi gửi gắm lại mối duyên dang dở với Kim Trọng. “Cậy em em có chịu lời”, câu thơ vừa mang ý khẩn thiết cầu xin, nhờ vả trịnh trọng nhưng lại đặt Thúy Vân ở thế khó xử trước thỉnh cầu của người chị, đó như là sự gượng ép, càng khẳng định mối tình thâm của Thúy Kiều với Kim Trọng, không muốn vì chuyện của mình mà phụ lòng chàng Kim. Thúy Kiều hạ thấp vai vế của mình, đứng trên vị trí của người đi nhờ cậy “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. “Lạy” là hành động tôn kính, ghi ân thường chỉ có cha mẹ, thầy giáo mới có thể nhận, nhưng Kiều lạy em gái mình, đó là cái lạy đối với ân nhân. “Lạy rồi thưa”, ngôn ngữ sử dụng vô cùng trang trọng, như cái lễ ràng buộc khiến Vân không thể chối từ.

       Sau khi sử dụng hàng loạt các hành động, ngôn ngữ trang trọng như vậy, Thúy Kiều mới giãi bày câu chuyện của mình với Thúy Vân, mong rằng em có thể thay chị yêu thương, chăm sóc, chắp tiếp đoạn duyên với Kim Trọng:

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

       Duyên tình đến nửa chừng đứt đoạn, thành ngữ “đứt gánh tương tư” như một lời than cay đắng tưởng niệm mối tình không trọn. Sóng gió đã cướp đi hạnh phúc đáng lẽ thuộc về Kiều, để nàng chơ vơ giữa đoạn đường còn tình cảm, còn nhung nhớ ngập ngụa những khổ đau thống thiết khi phải xa lìa yêu thương. Chữ “tương tư” như tiếng sóng ngầm khắc khoải, day dứt mang theo cả tuyệt vọng. Tác giả còn sử dụng điển tích “keo loan” để mong muốn duyên sau với Thúy Vân sẽ bền chặt, mong rằng Thúy Vân sẽ bằng lòng nhận lấy đoạn duyên này. Thúy Kiều biết, đó là “mối tơ thừa”, là chuyện tình dang dở của mình nên em gái sẽ có phần thiệt thòi nên mới thốt lên từ “mặc”, ý rằng để Vân được tự mình định đoạt.

       Gửi duyên cho Vân thế mà nỗi nhớ mong về ngày xưa năm cũ cứ thế mà trỗi dậy trong lòng Kiều, ký ức như một bộ phim tua lại, rõ ràng tràn đầy nhung nhớ giữa bể khổ trần ai:

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

       Từ “khi” điệp lại đến ba lần, mở ra từng mốc thời gian Thúy Kiều gặp được Kim Trọng, tất cả những kỷ niệm, vui mừng, đính ước, thề hẹn đều rõ ràng đến vậy. “Ngày quạt ước”, “đêm chén thề”, ngày và đêm, không gian và thời gian cứ như tuần hoàn liên tục, đó là khi họ bầu bạn đối thơ, ngắm trăng, uống rượu, trao nhau vật đính ước… Có bao giờ Kiều quên được điều đó, nỗi nhớ ấy như con dao khứa sâu, chỉ có thể lần cuối nhớ lại trong ký ức đẹp nhất, khi Kiều vẫn còn chưa thuộc về Mã Giám Sinh. Chắc gì về sau còn được cảm thấy hạnh phúc khi nhớ lại, có khi nó còn trở thành niềm day dứt, khổ sở và bi thương của nàng Kiều.

       Tiếp đó, Nguyễn Du khéo léo để Kiều nhắc lại “cơ sự cho nên nỗi này” để mối tình đẹp như hoa mộng của Kiều phải chia xa:

Sự đâu sóng gió bất kỳ

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

       “Sóng gió” ấy là phong ba ập lên đầu gia đình Kiều, cha và em bị bắt còn Kim Trọng phải về quê chịu tang, hai ngả hai nơi, một bên là hiếu, một bên là tình, thật vô cùng khó xử. Bán mình chuộc cha, phụ tình cảm thủy chung bấy lâu nay mà người thương hết lòng dành cho nàng. Vì tình phụ hiếu, sau này sao có thể ngửa mặt nhìn đời, đối diện với cha mẹ trong nhà, với dòng họ, tổ tiên. Làm thế nào, cũng khó có thể vẹn toàn. “Hai bề vẹn hai” đó là điều khó khăn nhất trong sự nguy ngập với tính mạng của cha và em. Đó mãi là câu hỏi đau đớn xoáy sâu vào lòng Kiều, nàng biết, không có cách nào vẹn cả đôi đường. Nỗi đau ấy đang ngày đêm làm Kiều khổ sở, Kiều như phơi bày ruột gan, bộc bạch tất cả nỗi niềm mong rằng Thúy Vân có thể hiểu lòng chị mà giúp cho tình duyên này không đến mức phải phụ lòng.

       Hơn thế, Thúy Kiều còn dùng lý lẽ thích đáng để thuyết phục Vân có thể nhận lời:

Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

       Phải, Thúy Vân còn trẻ, năm tháng dài rộng, cho dù tình cảm với Kim Trọng khuyết thiếu có thể bù đắp còn hơn người chị đã rời xa. Từ “xót” cùng với cụm từ “tình máu mủ” như chạm vào tình cảm huyết thống mà Thúy Vân có với Thúy Kiều, của chị cũng là của em, chúng ta là máu mủ ruột thịt hãy thương lấy nhau. Mong rằng Thúy Vân niệm tình máu mủ yêu thương lo toan bao nhiêu năm mà thay chị gánh vác lời thề “nước non” với Kim Trọng. Lý do Kiều đưa ra vừa hợp lý vừa hợp tình.

       Không những vậy, nỗi lo sợ về cái chết không còn có cơ hội trở lại càng trở thành lý do thuyết phục hơn với Thúy Vân:

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

       Việc trả nghĩa trả tình cho Kim Trọng quan trọng hơn cả tính mạng của Kiều. Khi chết, con người trở về với cát bụi, không còn liên quan đến thế gian này nữa nhưng tâm nguyện của họ vẫn còn vang vọng đâu đây. Tâm nguyện của Kiều là mong mỏi em mình nối duyên với chàng Kim, chỉ có vậy nàng mới có thể “ngậm cười chín suối”. Câu thơ như là lời trăn trối của Kiều sợ rằng sau này không thể gặp lại được Kim Trọng. Cũng vì lấy cái chết, lấy tâm nguyện của một kẻ sắp chết nên lời thỉnh cầu càng thêm nặng khiến cho Thúy Vân không thể khước từ.

       Tuy rằng lấy tên là “Trao duyên” nhưng đó lại là cái duyên ép uổng mà Thúy Kiều để lại cho em mình, đó là nỗi đau bất đắc dĩ vì chọn đạo hiếu cao hơn tình yêu mà Kiều phải chấp nhận. Xuyên suốt đoạn trích là sự oan ức, thống khổ, không nỡ chia lìa của Thúy Kiều. Cho dù để lại đoạn duyên chắp nối cho em, âu cũng là điều không đành lòng.

       Bằng nghệ thuật độc đáo, ngôn từ bậc thầy, giọng thơ đi sâu vào lòng người, Nguyễn Du đã lột tả trọn vẹn nỗi đau và câu chuyện của Thúy Kiều khi gửi gắm mối duyên với Kim Trọng trong 12 câu thơ đầu đoạn trích “Trao duyên” (Đoạn trường tân thanh). Đó còn là tiếng kêu than về một xã hội thối nát, làm cuộc sống của người dân vô tội điêu đứng đồng thời là sự bất bình, lòng thương cảm cho thân phận của người phụ nữ đương thời mỏng manh như bèo nước, chịu nhiều oan trái khổ đau.


Cảm nhận của em về 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên ngắn nhất - Bài mẫu 2

       Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc với những tuyệt tác nghệ thuật mà ông đóng góp vào nền văn học Việt Nam. Trong số đó không ai là không biết đến thi truyện “Truyện Kiều” là niềm tự hào của dân tộc. Đó là một câu chuyện được viết nên bằng những vần thơ tô đậm số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thối nát xưa. Mười hai câu đầu đặc sắc trong đoạn trích “Trao Duyên” thuộc phần đầu của thi truyện, là lời nức nở nghẹn ngào khi phải trao mối tình duyên của Thúy Kiều.

       Mối tình của nàng Thúy Kiều với Kim Trọng thật sâu đậm, thế nhưng vì xã hội phong kiến thời bấy giờ đã giăng tạo đầy rẫy những bất công khiến đôi uyên ương phải xa cách. Trước tình cảnh đó, để không phụ tấm chân tình mà Kim Trọng dành cho mình, Thúy Kiều đã trao duyên cho người em gái của mình là Thúy Vân trong mười hai câu thơ đầu đoạn trích. Ta nghe như đâu đây tiếng van nài tha thiết từ tấm lòng người chị đang chất chứa muôn vàn khổ đau:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

       Đó là lời lẽ chân tình thuần hậu mà Thúy Kiều nói với người em gái của mình. Từ “cậy” chứ không phải từ nhờ là cách dùng từ đặc sắc của Nguyễn Du bởi chỉ trong từ cậy đã thể hiện được hết sự van xin nài nỉ nhưng cũng có đôi phần ép buộc. Lời khẩn cầu vừa mang ý tứ nhờ vả vừa có sự thấp thỏm mong ngóng lời đồng ý “có chịu lời”. Hành động của Thúy Kiều nghe ra hơi có sự vô lý: lạy và thưa bởi hành động ấy chỉ những người nhỏ hơn mới có thể dùng với bậc tiền bối của mình. Điều này chứng tỏ sự nghiêm túc, thật tâm khẩn cầu của Thúy Kiều. Lạy là hành động trang nghiêm trịnh trọng trong khi đó tư thế của nàng là hạ mình như thể mang ơn Thúy Vân qua từ “thưa”. Đó là những lời nói, hành động khác lạ bắt nguồn từ thái độ nghiêm túc hệ trọng và khó nói của việc trao duyên. Thúy Kiều rất khéo léo khi thấu hiểu sự thiệt thòi của em để dùng từ ngữ tạo nên một bầu không khí trao duyên khiến Thúy Vân không thể nào chối từ. Từng từ ngữ câu nói thốt ra đều được Thúy Kiều cân nhắc kĩ càng, chọn lọc. Cái tinh tế trong nội tâm nhân vật được Nguyễn Du diễn tả một cách rất thông minh khéo léo. Càng đọc thơ ta càng thấy rằng Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ được lâu bền, sẽ “đơm hoa kết trái” cho Thúy Vân

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

       “Gánh tương tư” là của Thúy Kiều chính là tình yêu sâu nặng với Kim Trọng nhưng giờ đây đã “đứt gánh” mà không thể nào nối liền lại được. Câu thơ là tiếng xót xa cho chính bản thân mình, cho người em chưa có một mối tình của riêng mình mà giờ đây đáp nghĩa cùng chàng Kim không có một chút tư tình. Thúy Kiều van nài sự xót thương cho số phận bạc mệnh của mình để em gái thương mình mà nhận lời. Nàng băn khoăn Kim Trọng và Thúy Vân bị lỡ làng nhân duyên trong khi chính nàng mới là người chịu nhiều đau khổ thương tâm nhất. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình, là tình thương em gái từ tận đáy lòng. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ hay chối bỏ mà nó có nghĩa là sự phó thác trách nhiệm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự nhờ cậy nơi Vân về mối nhân duyên dang dở của mình.

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề

       Ta có thể hình dung ra hình ảnh một mỹ nhân tuyệt thế đang ngước mắt hoài niệm về mối tình sâu đậm, tình yêu tràn ngập trong ánh mắt. Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng, đâu phải tình cảm một sớm một chiều mà là tình cảm được vun đắp qua từng năm tháng. Câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề” làm sống dậy những kỉ niệm đẹp của đôi tình nhân. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui kỉ niệm về ngày tháng tình nồng ý đậm. Thế nhưng đó cũng là tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, sự tiếc thương về kết thúc của những kỉ niệm đẹp ấy và chuỗi ngày bi thảm mịt mù tiếp theo.

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

       Những biến cố liên tục ập đến gia đình và Thúy Kiều phải hy sinh bản thân mình để gia đình được êm ấm đoàn tụ. Chữ “Hiếu” là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu mà con người ta phải dẹp bỏ lợi ích riêng tư, đó đã trở thành điều hiển nhiên trong quan niệm đạo đức khi xưa. Kiều là người con hiếu thảo, có tình nghĩa bởi thế mà giữa bên tình bên nghĩa nàng đã chọn nghĩa để giữ trọn đạo hiếu làm con. Nàng đã tự mình chôn vùi tình cảm riêng tư, hạnh phúc của bản thân để báo hiếu cha mẹ.

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

       Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với Kim Trọng. Ở đời ai chẳng khao khát được gắn bó se duyên ở bên cạnh người mình yêu, có xu hướng hy sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Đặc biệt điều ấy càng thể hiện rõ ở người con gái đa sầu đa cảm, sống có tình nghĩa.Vì thế mà Kiều sẵn sàng “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Sự hy sinh ấy thật cao cả biết bao!

       “Trao Duyên” không chỉ đặc sắc ở nội dung mà còn ở nghệ thuật khi hàng loạt những từ đắt giá được sử dụng khéo léo nhuần nhuyễn. Qua đoạn trích, ta có thể thấy được xã hội phong kiến thối nát xưa và đặc biệt là hình tượng người phụ nữ qua nhân vật Thúy Kiều: trọng tình trọng nghĩa, hy sinh cao cả đó là những vẻ đẹp phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.


Cảm nhận của em về 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên ngắn nhất - Bài mẫu 3

       Đại thi hào Nguyễn Du (1765-· 1820) tên chữ là Tố Như là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của Nguyễn Du gắn liền với "Truyện Kiều", một trong những tác phẩm nổi tiếng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Được viết dựa trên cốt truyện của "Kim Vân Kiều truyện", "Truyện Kiều" phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, một xã hội mục nát bất công, nhẫn tâm dồn ép nhân dân vào bước đường cùng. Tuy chỉ là một đoạn trích ngắn từ "Truyện Kiều", song "Trao duyên" vẫn thể hiện đầy đủ chủ đề của tác phẩm. Sống trong thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, nhân vật chính Thúy Kiều bị ép phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em trai, phải từ bỏ tình cảm của mình với Kim Trọng, trao lại duyên tình dang dở ấy cho Thúy Vân dù trong lòng có bao nỗi đau xót. Điều đó được khắc họa rõ nét trong 12 câu thơ đầu của đoạn trích "Trao duyên":

"Cậy em em có chịu lời,
...
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."

       Nhan đề đoạn trích là "Trao duyên" nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Trao duyên ở đây là gửi gắm tình cảm của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dở dang của mình. Thúy Kiều nghĩ đến Kim Trọng, nghĩ đến việc mình đã không giữ trọn lời đính ước với người yêu, băn khoăn thức trắng đêm nghĩ cách trả nghĩa cho chàng, cuối cùng đành nhờ cậy em là Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng.

       Mở đầu đoạn thơ là lời thỉnh cầu chân thành tha thiết của Kiều:

"Cậy em em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa."

       Nguyễn Du là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ, điều đó có thể dễ dàng thấy được qua hai câu thơ trên. "Cậy" và "nhờ" đều có nghĩa là nhờ vả, xin sự giúp đỡ của một ai đó, nhưng thay vì sử dụng từ "nhờ", Nguyễn Du đã khéo léo chọn từ "cậy", bởi vì từ "cậy" này có nghĩa là nhờ với tất cả sự hi vọng và tin tưởng, nét nghĩa này từ "nhờ" không thể hiện được. Cũng như vậy, thay vì từ "nhận", tác giả lại dùng từ "chịu" bởi vì khác với từ "nhận", từ "chịu" không chỉ thể hiện sự đồng ý, nhận lời mà còn kèm theo ý bắt buộc, khiến cho người được nhờ vả khó nói lời từ chối. Cách tác giả dùng từ rất chính xác, bởi lẽ đây là chuyện rất quan trọng đối với Kiều, nàng hi vọng Thúy Vân đồng ý, nên lời van nài cũng có chút ép buộc. Tuy Kiều cũng hiểu việc nhờ Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng là hết sức vô lí, nhưng nàng vẫn quyết tâm muốn trả nghĩa cho người yêu, bỏ qua lẽ thường, nàng "lạy" và "thưa" đối với em mình. Kiều dùng chính lễ nghi lạy trước thưa sau, thay bậc đổi ngôi này để ràng buộc Vân. Trong tình thế vừa tình vừa lễ như vậy, Vân sao có thể không nhận lời?

       Lạy xong, Kiều mở lời giải bày hoàn cảnh của mình với em, nói ra ý định muốn em kết duyên với Kim Trọng:

"Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em."

       Thành ngữ "đứt gánh tương tư" có ý chỉ tình yêu dang dở. Tình cảm của Kiều với Kim Trọng chưa kịp tới hồi viên mãn thì sóng gió đã ập tới, đành phải dở dang, Kiều đau khổ biết mấy, nhưng đành ngậm ngùi trao lại cho em. Nàng dùng điển tích về "keo loan" để thể hiện ý định muốn Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Không những thế, nàng cũng bày tỏ sự ray rứt đối với em, đem mối tình sâu đậm của nàng biến thành một mối "tơ thừa" giao phó cho Thúy Vân, "mặc" cho Thúy Vân định liệu.

       Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về khiến nàng đau đớn khôn nguôi, nàng không dằn được lòng mình, tâm sự với em:

"Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề."

       Từ "khi" được lặp lại ba lần gợi cho người đọc nghĩ đến tình cảm sâu nặng giữa Kiều với chàng Kim, nhớ đến những kỉ niệm đẹp của hai người. Với nghệ thuật liệt kê "ngày quạt ước", "đêm chén thề" những kỉ niệm đẹp đẽ ấy trở nên sống động hơn trong lòng Kiều. Những kí ức ấy vốn rất ngọt ngào, giờ đây khi nhớ đến lại trở thành một nỗi đau không thể nào nguôi trong lòng nàng, đặc biệt là khi nghĩ đến nguyên nhân của nỗi đau này:

"Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."

       "Sóng gió bất kì" là khi Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, gia đình Kiều lại bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, cách duy nhất để cứu họ là nàng phải bán mình, đồng nghĩa với việc nàng phải làm trái với lời hẹn ước trước kia với người yêu. Hoàn cảnh trái ngang quá, giữa hai lẽ "hiếu" và "tình", Kiều chỉ có thể chọn một. Nàng dằn vặt nội tâm, day dứt đau đớn, cuối cùng đành hi sinh tình yêu của mình để làm tròn chữ hiếu. Nàng tỏ nỗi lòng với Vân, dùng nỗi đau của mình để thuyết phục Vân, hy vọng em mình có thể thấu hiểu cho và chấp nhận yêu cầu của mình.

       Đã tỏ bày nỗi lòng nhưng vẫn sợ Vân không đồng ý, Kiều lại dùng lí lẽ để thuyết phục em:

"Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."

       Để thuyết phục em, Kiều không tiếc viện đến tình máu mủ, cùng với cả cái chết. Các thành ngữ "tình máu mủ", "lời nước non", "thịt nát xương mòn" , "ngậm cười chín suối" được dùng đến trong bốn câu thơ trên thể hiện sự quyết tâm thuyết phục em cho bằng được của Kiều. Đối với nàng, việc trả nghĩa cho Kim Trọng còn quan trọng hơn cả mạng sống, chỉ cần Vân kết duyên với Kim Trọng, cho dù có chết đi thì Kiều cũng thấy được an ủi, mãn nguyện. Chính cách viện đến tình máu mủ và cái chết ấy đã khiến cho Vân chẳng thể nào từ chối lời khẩn cầu của nàng.

       Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian và kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với ngôn ngư bình dân , Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tâm trạng dằn vặt, đau đớn khi phải hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu của Kiều, khiến hình tượng của nàng trở nên đẹp đẽ hơn trong lòng người đọc. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình.

       Thông qua việc thể hiện nỗi đau của Kiều khi phải trao duyên tình dang dở của mình cho em, "Trao duyên" mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, bị chính đồng tiền dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát. Chính giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc ấy mà đoạn trích, cũng như "Truyện Kiều" đã để lại trong lòng nhiều thế hệ độc giả ấn tượng sâu sắc.

---/---

Trên đây là các bài văn mẫu Cảm nhận của em về 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên ngắn nhất do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

icon-date
Xuất bản : 27/05/2021 - Cập nhật : 27/05/2021