Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Cảm nhận của anh chị về nhân vật bà cụ Tứ. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!
Kim Lân là một trong số những tác giả nổi bật nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam trong cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám, mặc dù số lượng tác phẩm để lại không nhiều, nhưng tác phẩm nào của ông cũng hay và ấn tượng. Sở dĩ những sáng tác của ông để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc là bởi Kim Lân vốn là một người con của làng quê, ông sống trong cái nghèo đói và mang trong mình những tình cảm nồng hậu chất phác của một người thôn quê chính hiệu. Cuộc sống của người nông dân được tái hiện trong các tác phẩm của ông rất gần gũi, chân thực, trong đó ẩn chứa tất cả những sự cảm thông, thấu hiểu, bộc lộ được nhiều khía cạnh mà có lẽ các nhà văn khác không thể chạm tới. Một trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của Kim Lân phải kể đến Vợ nhặt, truyện tái hiện lại cuộc sống khắc nghiệt của người nông dân trong nạn đói năm 1945. Trong đầy rẫy những tuyệt vọng, đau thương, người ta vẫn thấy được ánh sáng của niềm hy vọng sống, niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn, đặc biệt là vẻ đẹp tâm hồn, lòng yêu thương con người cũng được thể hiện rõ nét trong các nhân vật, tiêu biểu là nhân vật bà cụ Tứ - mẹ Tràng.
Cụ Tứ là nhân vật có ít "đất diễn" trong tác phẩm Vợ nhặt, thế nhưng bà lại là điểm sáng của cả tác phẩm, ở nhân vật này ta thấy được nhiều vẻ đẹp tổng hòa, bao gồm vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng sâu sắc, vẻ đẹp của tấm lòng lương thiện, biết cảm thông chia sẻ, và niềm tin mãnh liệt vào một cuộc sống tốt đẹp.
Trước hết, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người phụ nữ tuy nghèo hèn, tuy lớn tuổi vẫn phải nhọc nhằn suy tính mưu sinh. Ta nhận biết được điều này thông qua một vài chi tiết rất nhỏ: “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng…”. Từ “lọng khọng” khiến người đọc có cảm giác như một bà lão dáng dấp nhỏ bé, không còn nhanh nhẹn, bước từng bước chậm chạp, nhọc nhằn đang bước ra từ bóng tối mịt mùng. Giữa không gian xóm ngụ cư tồi tàn, con người “tối sầm” vì đói khát, không khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người chết đói” cộng hưởng với cái “lầm bầm tính toán” khiến ta rợn người. Có thể tính toán gì nữa đây trong cái cảnh “không còn gì để mất” này? Do đó, bà cụ Tứ bước tới mang theo cả “bầu trời” thê lương đến não lòng.
Tiếp theo, Kim Lân còn xây dựng lên nhân vật bà cụ Tứ giàu tình thương, đức hi sinh, luôn mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn. Bà cụ Tứ là người mẹ luôn biết thấu hiểu cho đưa con trai – cu Tràng, hết lòng mong cho con được hạnh phúc. Điều này thể hiện rõ qua diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trong suốt câu chuyện. Lúc đầu, thấy anh Tràng dắt về một người đàn bà lại, cụ Tứ “đứng sững lại”, “ngạc nhiên”. Rồi càng ngạc nhiên hơn, khi người đàn bà kia “chào mình bằng u”. Sống quá nửa đời người, chỉ giây lát bà cụ Tứ như dần hiểu ra mọi chuyện, mắt bà nhoèn đi. Một câu hỏi lớn xuất hiện trong đầu bà cụ Tứ: giữa nạn đói khủng khiếp này, ăn còn chẳng đủ làm sao mà nuổi nổi nhau đây? Bà hiểu cả, hiểu khao khát có một mái ấm gia đình của cu Tràng, nhưng hiện thực phũ phàng không cho Tràng có cơ hội có một đám cưới đàng hoàng như bao người. Của hồi môn là vài câu hò với mấy bát bánh đúc, cô vợ là người đàn bà “nhặt” về, thế nhưng, sau những giây phút ngập ngừng suy tính, bà cụ Tứ cũng “mừng lòng” đón nhận. Đó chẳng phải minh chứng cho khao khát hạnh phúc gia đình của bà cụ Tứ đó sao? Bà cụ Tứ không chỉ thương con, mà còn là người giàu lòng nhân ái, thương người cùng cảnh. Bà đón nhận một người đàn bà dưng về dù “không biết có nuôi nổi nhau không”.
Nhân vật bà cụ Tứ bị đặt trong hoàn cảnh éo le, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan của người mẹ già yếu, tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng luôn hướng về tương lai thể hiện qua những hành động và lời nói. Cụ tin vào triết lý dân gian: ai giàu ba họ ai khó ba đời- lạc quan về một ngày mai tươi sáng.Cụ đồng tình khi thấy Tràng thắp đèn mặc dù cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời”này lại là người nói về tương lai nhiều nhất” cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng” tươi tỉnh khác hẳn ngày thường”. Chính tâm trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai. Sáng hôm sau cụ xăm xắn quét dọn nhà cửa, đó là những công việc sinh hoạt thường ngày nhưng đặt trong hoàn cảnh này, hành động quét dọn làm nhà cửa trông sạch sẽ, tinh tươm hơn giống như cụ đang muốn tự tay quét đi những tăm tối của ngày cũ và đón chờ những điều tươi sáng hơn. Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy", cứ quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không những không bị mất đi mà lại càng trở nên mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Trong buổi sáng đầu tiên đón tiếp nang dâu mới, nồi cháo cám “ chát xít, nghẹn bứ trong miệng” mà ngon ngọt trong long, ngọt bởi tâm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng ngắt của cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa vọng lại đã không làm niềm vui nhỏ của những con người nghèo khổ cất cánh lên được.
Nhân vật người mẹ bà cụ Tứ mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam: giàu đức hi sinh, vị tha, tình mẫu tử cao đẹp, trí tuệ… Khi miêu tả, phát hiện và tôn vinh những vẻ đẹp đó của nhân vật người mẹ, nhà văn đã đem lại cho tác phẩm giá trị nhân đạo sâu sắc, gợi trong lòng độc giả những rung cảm thẩm mĩ có sức ám ảnh và lan tỏa. Tuy nhiên, văn chương không bao giờ chấp nhận lối mòn, bất cứ sự lặp lại nào (người khác hay chính mình) sẽ dẫn đến con đường khai tử cho nghệ thuật. Thấu hiểu điều đó, Kim Lân có những khám phá riêng ở hình tượng người mẹ. Bà cụ Tứ trong truyện ngắn của Kim Lân được đặt vào bối cảnh của nạn đói 1945. Từ đó nhà văn làm nổi bật lên chủ đề “Những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà họ nghĩ đến cái sống”. Lòng nhân ái, tình mẫu tử cao đẹp, sức sống diệu kì và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống của các nhân vật chính là tình người ấm áp mà nhà văn muốn gửi gắm tới bạn đọc.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945 để diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả chính là việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người, những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng điển hình cho người đàn bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Hẳn rằng người đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà.
Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, tại sao không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này. Bà Tứ xuất hiện từ khi Tràng đưa vợ về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác xuất hiện trong ngôi nhà của mình.
Trước hết, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người phụ nữ tuy nghèo hèn, tuy lớn tuổi vẫn phải nhọc nhằn suy tính mưu sinh. Ta nhận biết được điều này thông qua một vài chi tiết rất nhỏ: “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng…”. Từ “lọng khọng” khiến người đọc có cảm giác như một bà lão dáng dấp nhỏ bé, không còn nhanh nhẹn, bước từng bước chậm chạp, nhọc nhằn đang bước ra từ bóng tối mịt mùng. Giữa không gian xóm ngụ cư tồi tàn, con người “tối sầm” vì đói khát, không khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người chết đói” cộng hưởng với cái “lầm bầm tính toán” khiến ta rợn người. Có thể tính toán gì nữa đây trong cái cảnh “không còn gì để mất” này? Do đó, bà cụ Tứ bước tới mang theo cả “bầu trời” thê lương đến não lòng.
Đi sâu vào nội tâm nhân vật bà cụ Tứ, ta dần thấy những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý hiện ra, trước hết là vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng. Khi nghe anh Tràng thông báo chuyện cưới vợ, bà lão vẫn chưa hiểu ra cớ sự, phần vì bất ngờ, phần vì không thể tin được lại có một người đàn bà chịu về làm vợ con trai mình, chịu sống trong căn nhà tồi tàn, rách nát của bà. Nhưng sau năm lần bảy lượt anh Tràng giải thích và khẳng định, bà cụ cuối cùng cũng tin đó là sự thật, tuy nhiên thay vì vui mừng, trong lòng bà lại dấy lên biết bao nhiêu tâm sự, một nỗi buồn bắt đầu len lỏi trong tâm hồn già nua của người đàn bà khắc khổ "Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi". Đời bà đã trải qua biết bao nhiêu những đắng cay, tủi hờn, bà cũng hiểu rõ con người đến tuổi dựng vợ gả chồng, ai cũng mong muốn được một hạnh phúc nho nhỏ, dẫu là giàu sang hay nghèo khó. Thế nhưng nhìn lại phận mình, phận con trai bà, lòng bà cụ lại tràn đầy những chua xót không tên. Bà tủi phận vì nghèo khó mà không lo cho con nổi một đám cưới, để nó phải tự lấy về một người vợ, một người đàn bà chắc cũng đến bước đường cùng mới phải về đây. Càng nghĩ bà lại càng thấy "ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình", cái sự xúc động, tủi thân ấy khiến "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt". Tấm lòng thương con của bà còn thể hiện trong nỗi lo lắng "biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không". Bà không trách móc con trai tự làm chủ chuyện hôn nhân đại sự, mà lòng người mẹ nhân từ chỉ xuyên suốt một nỗi lo đau đáu rằng biết rồi mai đây vợ chồng chúng có vượt qua cơn đói khát này để sống đời với nhau được hay không, hay lại làm khổ nhau. Cụ Tứ thương con, lòng bồi hồi vì có dâu mới, cũng lại trăn trở một nỗi lo lắng cho cuộc đời của người con trai duy nhất. Thế nhưng cụ không suy nghĩ, buồn rầu quá lâu, người ta nhanh chóng nhìn thấy ở cụ sự thông suốt, thấu hiểu, tự vực dậy tinh thần của mình "Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con...Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?". Cụ đã chấp nhận cái đám cưới chớp nhoáng giữa nạn đói kinh hoàng, đồng thời mở lời động viên các con, săn sóc đến người phụ nữ vừa bước vào nhà làm dâu, vun vén cho vợ chồng Tràng bằng những lời của tổ tiên "Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?". Bà kín đáo giấu đi những trăn trở lo toan vào lòng, mở ra cho các con của mình một hy vọng tốt đẹp vào tương lai.
Cụ Tứ có tấm lòng bao dung, cảm thông sâu sắc với số phận con người, điều đó bộc lộ rõ nét nhất thông qua cái cách mà bà đối xử với thị - vợ Tràng. Hai người đàn bà một già một trẻ gặp mặt nhau trong một tình huống kỳ lạ - một đám cưới chớp nhoáng, họ đã trở thành mẹ chồng - nàng dâu ngay từ lần đầu tương ngộ. Thế nhưng không vì sự đường đột xuất hiện của thị mà cụ Tứ tỏ ý xa cách, trái lại bà rất thấu hiểu, bà thương cho thị gặp phải bước khó khăn mới chịu lấy đến con trai bà, cho con trai bà một gia đình. Để cho thị đỡ lúng túng, xấu hổ bà mở lời đồng ý chuyện hôn nhân "ừ, thôi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng". Rồi khi thấy bộ dạng xấu hổ, tả tơi của thị "lòng đầy thương xót" vội giục "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống cho đỡ mỏi chân", bà đã dang rộng vòng tay thương cảm cho thị một con đường, xóa đi cái sự xa lạ trong lòng thị, để thị được vững tin vào cái đám cưới kỳ lạ này, đồng thời xem thị chính thức là dâu con trong nhà mà đối xử. Bà nghĩ đến sự thiệt thòi của một người phụ nữ không có cỗ cưới trong ngày trọng đại nhất cuộc đời mà thầm thương xót thị, chính lẽ ấy nên bà đã thân mật với cô con dâu mới những lời từ đáy lòng "cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Năm nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá", nói đoạn không kìm nổi nỗi xúc động, xót xa bà lão "nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng". Lòng thương con của người mẹ, sự xót xa cho cuộc đời mình, cùng tấm lòng đồng cảm với thị đã khiến cụ Tứ không nén nổi nước mắt, cuộc đời này bà có lẽ đã khóc nhiều, nhưng khóc lần này chắc là mang nhiều xúc cảm hỗn độn nhất.
Ngoài tình mẫu tử cao đẹp, tấm lòng bao dung nhân hậu, Kim Lân còn khắc họa ở cụ Tứ một vẻ đẹp đáng quý khác, ấy chính là niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai ngay giữa những năm tháng tối tăm nhất. Tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng bà luôn hướng về tương lai thể hiện qua những hành động và lời nói. Cụ tin vào triết lý dân gian: ai giàu ba họ ai khó ba đời- lạc quan về một ngày mai tươi sáng.Cụ đồng tình khi thấy Tràng thắp đèn mặc dù cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời”này lại là người nói về tương lai nhiều nhất” cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng” tươi tỉnh khác hẳn ngày thường”. Chính tâm trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai. Sáng hôm sau cụ xăm xắn quét dọn nhà cửa, đó là những công việc sinh hoạt thường ngày nhưng đặt trong hoàn cảnh này, hành động quét dọn làm nhà cửa trông sạch sẽ, tinh tươm hơn giống như cụ đang muốn tự tay quét đi những tăm tối của ngày cũ và đón chờ những điều tươi sáng hơn. Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy", cứ quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không những không bị mất đi mà lại càng trở nên mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Trong buổi sáng đầu tiên đón tiếp nang dâu mới, nồi cháo cám “ chát xít, nghẹn bứ trong miệng” mà ngon ngọt trong long, ngọt bởi tâm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng ngắt của cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa vọng lại đã không làm niềm vui nhỏ của những con người nghèo khổ cất cánh lên được.
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
Xem thêm:
>>> Cảm nhận về tình đẹp mẫu tử của bà cụ Tứ trong Vợ nhặt
Kim Lân không sáng tác nhiều, thế nhưng hầu hết các tác phẩm của ông đều để lại tiếng vang, đưa ông trở thành một trong mười nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực trước cách mạng. Với cuộc đời gắn bó với làng quê, tấm lòng thấu hiểu sâu sắc về cuộc đời của những người nông dân lầm lũi, Kim Lân đã tạo dựng nên bức tranh hiện thực đặc sắc, chân thật về con người của thế kỷ trước, đặc biệt là trong những giai đoạn khó khăn nhất của đất nước. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những tác phẩm thành công và xuất sắc nhất của Kim Lân, truyện không chỉ phản ánh số phận con người, hiện thực thảm khốc trong nạn đói năm 1945 mà quan trọng hơn trong tác phẩm của mình, tác giả đi sâu vào các giá trị nhân đạo, bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người nông dân, dù thực tại có tàn khốc, bị cái đói hành hạ, cái chết luôn cận kề, nhưng ở họ ta vẫn thấy sáng lên vẻ đẹp của niềm tin, hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp, tấm lòng bao dung, thông cảm, vẻ đẹp của tình mẫu tử đong đầy. Trong tác phẩm Vợ nhặt người thể hiện rõ những vẻ đẹp này chính là nhân vật bà cụ Tứ, dù không có nhiều phân cảnh, thế nhưng bà vẫn thể hiện được những vẻ đẹp tiềm ẩn mà Kim Lân muốn truyền tải.
Bà cụ Tứ là một điển hình của người nông dân thế kỷ trước, sống một đời với những gánh nặng mưu sinh vất vả lại phải vật lộn với cái đói khủng khiếp những năm 1944-1945. Bà cụ Tứ là người đàn bà góa chồng, sống trong một căn nhà rách nát trong xóm Ngụ Cư. Hình ảnh bà cụ xuất hiện trong truyện cũng chỉ vỏn vẹn mấy từ, nhưng in đậm trong tâm trí người đọc bức chân dung của một người phụ nữ trải qua gần hết đời người với những nhọc nhằn, tủi khổ, đó là một bóng dáng gầy yếu, bệnh tật miệng húng hắng ho, dáng người lọng khọng, luôn lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhìn vào cảnh ấy, tức thời trong trí óc người đọc đã hiện lên cái số phận khốn khổ của bà, khi mà cả đời cụ Tứ có lẽ đã chịu nhiều đau thương vất vả, hoàn cảnh neo đơn, cố sức nuôi lớn con cái, rồi đến khi đã tuổi gần đất xa trời, bà vẫn không được hưởng cuộc sống an nhàn, mà vẫn phải chịu cảnh khốn khổ, gồng mình chống chọi với cơn đói khủng khiếp.
Không chỉ vậy cả cuộc đời bà cụ Tứ vẫn luôn phải chịu những dày vò, day dứt về chuyện không thể lo nổi cho cậu con trai duy nhất một người vợ, chỉ vì bà nghèo quá. Nhưng càng trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, khốn khó, thông qua cách miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế từ ngòi bút Kim Lân, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ này lại càng hiện lên rõ nét, đó là vẻ đẹp thiêng liêng của tình mẫu tử, niềm hy vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn và tấm lòng bao dung, cảm thông cho những số phận bất hạnh.
Câu chuyện bắt đầu từ việc anh cu Tràng bất ngờ dẫn về một người vợ nhặt, Tràng lấy vợ ngay giữa cơn đói ngặt nghèo nhất, một đám cưới không hoa, không đèn, không có mâm bàn. Thị theo không Tràng về nhà chỉ với 4 bát bánh đúc, về ở với Tràng bằng hi vọng rằng sẽ có một cuộc sống tốt hơn, tránh khỏi cái nạn đói khủng khiếp đang bủa vây khắp xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, khi bà cụ được con trai giới thiệu cho người con dâu mới cưới, thoạt tiên bà chẳng hiểu đầu đuôi cớ sự, sự chậm rãi của một người già cả, cùng với sự kiện lạ lùng khiến bà cụ trong tức thời không thể lý giải, lòng bà có biết nhau nhiêu cớ sự thắc mắc. Tuy nhiên bà không vội vã hỏi dồn, hay tỏ ra hoang mang, mà trái lại bà im lặng nhìn con, ra ý để con trai mình từ từ giải thích đầu đuôi câu chuyện. Đó là biểu hiện của sự từng trải, của tấm lòng biết lắng nghe, chia sẻ, cũng là tấm lòng tin tưởng, yêu thương con của một người mẹ hiểu lý lẽ.
Sau khi nghe anh Tràng giải thích hết câu chuyện cưới vợ lạ lùng, bà bỗng hiểu ra bao nhiêu là cớ sự, rồi thì người mẹ ấy im lặng với biết bao nhiêu suy nghĩ ngổn ngang trong lòng, bao nhiêu những lo âu cùng dồn về tấm lòng của người mẹ thương con tha thiết. Bà ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình, đến cưới một tấm vợ cũng phải tự thân lo lấy, mà lại cưới ngay giữa cảnh đói kém, cái chết đang rình rập khắp nơi, trong đó có cả bà, con trai và người đàn bà xa lạ. Càng nghĩ bà cụ Tứ càng thấy xót xa, tủi cho phận mình, phận con, nỗi xúc động ấy khiếntrong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt. Thế nhưng sống ở đời đã mấy chục năm, có chuyện lạ nào, sự kiện nào mà bà chưa từng trông thấy, bà nhanh chóng thoát ra khỏi những nỗi buồn rầu trong lòng, nhìn đến người đàn bà sẽ là con dâu trong nhà nay mai, người sẽ bầu bạn với con trai, bà nhanh chóng vực lại tinh thần, chấp nhận mối hôn sự chớp nhoáng của cậu con trai. Bà cụ hiểu rằng Tràng cũng đã đến tuổi lấy vợ từ lâu, nay Tràng và thị đã phải duyên phải kiếp với nhau thì bà cũng bằng lòng, bà chỉ trăn trở mãi một mối lo biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không. Khi ấy tình thương của người mẹ lại càng hiện rõ, bà không trách con trai tự ý làm chủ hôn nhân, cũng không dò hỏi về câu chuyện cưới xin lạ lùng này mà bà chỉ có một ý nghĩ, sợ rằng vợ chồng Tràng không gồng gánh nổi nhau qua cơn đói khát khủng khiếp này, để mà xây dựng một mái ấm hạnh phúc. Bà thương cho số phận con trai mình thiếu thốn đủ điều, đến cuộc sống vợ chồng cũng bấp bênh chẳng thể đoán được tương lai phía trước. Thế nhưng trong ngày trọng đại, ngày vui của cuộc đời con trai, bà đã không để bản thân buồn rầu quá lâu, cũng không muốn phá hỏng buổi tân hôn, bà cụ nhanh chóng vực lại tinh thần với những điều tự nhủ thật lạc quanNgười ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho conChẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?. Rồi nhanh chóng trò chuyện, săn sóc với thị, kéo thị ra khỏi cảnh ngượng ngùng của người dâu mới về nhà chồng. Đồng thời nói những lời an ủi động viên, vun vén cho cuộc hôn nhân mới bằng những lời của cha ông rằng Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Đồng thời bà cũng nhanh chóng giấu nhẹm vào lòng những lo toan, sầu khổ đang bộn bề trong lòng, để mở ra cho các con một cuộc sống đầy hy vọng và tốt đẹp phía trước, dẫu rằng ngoài kia là hoạt cảnh thực tối tăm, đầy chết chóc, đau thương. Tấm lòng người mẹ của bà cụ Tứ quả thực ấm áp và đầy sự thấu hiểu, bao dung.
Không chỉ ở tấm lòng yêu thương, lo nghĩ cho con mà hình ảnh cụ Tứ còn hiện lên là một con người có tấm lòng bao dung, thấu hiểu và cảm thông sâu sắc với những số phận con người bất hạnh, mà điển hình ở đây là thị. Trước cảnh tượng con trai dẫn về một người đàn bà không lai lịch, rách rưới, tàn tạ, giới thiệu là vợ bà cụ Tứ không hề tỏ ý không hài lòng hay cự tuyệt trái lại bà chỉ im lặng nghe con trai kể chuyện rồi thầm quan sát người đàn bà. Sau khi đã rõ đầu đuôi câu chuyện bà nhanh chóng chấp nhận cuộc hôn nhân chớp nhoáng đồng thời tỏ ra thấu hiểu cho cái khó của thị Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Bà cũng thương cho người đàn bà khốn khổ, phải đến bước đường cùng, bị cái đói hành hạ đến mức nào thì mới chấp nhận kiếp làm vợ theo không của Tràng. Ánh nhìn đăm đăm vào thị, là cái nhìn của sự thấu hiểu, xót xa cho một kiếp người tàn tạ, thương cảm cho phận một người phụ nữ không được cưới hỏi đàng hoàng, không có mâm cao cỗ đầy, lầm lũi trở thành vợ người ta mà không một đồng sính lễ. Nghĩ đến đấy dường như bà lão càng thông cảm hơn cho thị bởi lẽ cũng may có thị xuất hiện thì con trai bà mới có được tấm vợ, có được cuộc sống gia đình điền viên.
Chính những suy nghĩ thấu đáo, hiểu lý lẽ như vậy, bà cụ đã nhanh chóng thấy thân thiết với người con dâu mới, nhẹ nhàng săn sóc thị Con ngồi xuống đây, ngồi xuống cho đỡ mỏi chân, để khiến cho thị đỡ ngại ngùng bỡ ngỡ trước tổ ấm mới. Rồi khi nhìn thấy sự rụt rè của thị, lòng bà lại tràn đầy thương xót, tội nghiệp cho một kiếp đàn bà, sinh ra vốn đã khổ, vào cảnh đói nghèo lúc này lại càng khổ cực hơn, có lẽ rằng cuộc đời thị cũng sẽ lại giống như cuộc đời bà mấy mươi năm trước. Nghĩ thế bà lại càng thương yêu thị hơn, nhẹ nhàng mà bảo ban, thân mật, giải thích cho thị về chuyện không có cỗ bàn đám cưới, lòng hy vọng thị sẽ không trách cho cái nghèo khó của mẹ con bà, mà cùng yêu thương vun vén hạnh phúc với Tràng, đồng thời cũng để thị đỡ tủi thân trước cảnh theo không về làm dâu nhà người. Rồi bà cũng thỉ thỉ tâm sự cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Nam nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá, ấy là tấm lòng yêu thương con trai, con dâu, sự xót xa của người làm mẹ trước cảnh khổ cực của con cái. Có thể nói rằng dù ít học, nghèo khó thế nhưng cụ Tứ lại có một tấm lòng thấu hiểu lý lẽ, đồng cảm, yêu thương con người sâu sắc, làm câu chuyện càng thêm ấm áp tình người, xua tan đi cái lạnh lẽo của nạn đói khủng khiếp đang hoành hành ngoài kia.
Để tạo niềm tin và hi vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói bà lão toàn nói những chuyện sung sướng sau này. Sự tính toán của bà về việc mua lấy đôi gà để ngoảnh đi ngoảnh lại đã có đàn gà, khiến cho đôi vợ chồng có niềm tin vào tương lai. Nhưng dù dùng những câu chuyện vui, lạc quan thì bà lão vẫn không thay đổi được hiện thực là nồi cháo kia chỉ đủ cho mỗi người ăn hai lưng là hết. Và để vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới có thêm cả nồi cháo cám. Bưng nồi cháo cám ra, phản ứng tâm lí của bà vô cùng đáng thương, bà lật đật, lễ mễ, khuấy khuấy cùng với giọng nói đầy phấn khởi, để giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực là bát cháo cám nghẹn ứ ở cổ. Những hành động đó của bà thật cảm động và đáng trân trọng.
Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa trời nói về tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.
Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
---/---
Như vậy Top lời giải đã trình bày xong bài văn mẫu Cảm nhận của anh chị về nhân vật bà cụ Tứ. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em học tốt môn Văn!