logo

Cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại Việt Nam

Cảm Hứng Nhân Đạo là cảm hứng của tình thương con người theo từng giai đoạn, thời điểm. Cốt lõi của cảm hứng nhân đạo là tình yêu, lòng thương nhân loại. Bản chất của cảm hứng nhân đạo là chữ tâm đối với con người. Cùng Top lời giải phân tích Cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại Việt Nam các bạn nhé!


1. Khái quát về văn học trung đại Việt Nam

- Tình hình xã hội

+ Từ thế kỉ X nước ta đã giành được quyền tự chủ (938).

+ Giai cấp phong kiến Việt Nam đóng vai trò tích cực trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, điển hình như kháng chiến chống giặc Tống, quân Mông Nguyên, giặc Minh, giặc Thanh và thực dân Pháp xâm lược (1858).

+ Xã hội bao gồm hai tầng lớp chính đó là phong kiến và nông dân.

- Tình hình văn học

+ Văn học trung đại (hay là văn học viết thời phong kiến) từ đầu thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX đi cùng với sự xuất hiện của một số tác phẩm văn học của các tác giả hoặc khuyết danh.

+ Tầng lớp tinh thông và tâm huyết về hán học có tinh thần dân tộc công khai mở đầu cho dòng văn học viết này.

+ Văn học trung đại ra đời đóng vai trò chủ đạo trong tiến trình văn học Việt Nam cùng với văn học dân gian làm cho diện mạo văn học của dân tộc được hoàn chỉnh và phong phú.

+ Văn học trung đại gồm hai thành phần chính

- Văn học chữ Hán

+ Được sáng tác bằng chữ Hán, song vẫn có tinh thần dân tộc cao bởi phản ánh được tình hình đất nước, xã hội và con người Việt Nam. Mặc dù vậy thì bộ phận văn học này vẫn có những hạn chế nhất định bởi vì chữ Hán không được dùng phổ biến ở nước ta (thường chỉ dùng trong tầng lớp quý tộc).

+ Một số tác giả và tác phẩm tiêu biểu như: Nguyễn Trãi (Bình Ngô đại cáo, Ức trai thi tập, Lam Sơn thực lực, Phú núi chí linh, Quân trung từ mệnh tập…), Nguyễn Bỉnh Khiêm (Bạch Vân thi tập), Nguyễn Dữ (truyền kỳ mạn lục), Ngô gia văn phái (Hoàng Lê nhất thống chí), Lê Hữu Trác (Thượng kinh kí sự)…

- Văn học chữ Nôm

+ Văn học chữ Nôm ra đời sau văn học chữ Hán (khoảng thế kỷ XIII), tuy nhiên đây lại là một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển văn học của dân tộc.

+ Nhìn chung, văn học chữ Nôm ra đời được thuận lợi hơn khi đã phản ánh một cách trung thực hiện thực cuộc sống cũng như đời sống tâm hồn con người Việt Nam thời bấy giờ.

- Văn học chữ Quốc ngữ

+ Xuất hiện từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, chữ quốc ngữ được dùng để sáng tác văn học.

+ Đến đầu thế kỷ XX, chữ quốc ngữ mới được dùng phổ biến và trở nên rộng rãi, trở thành văn tự gần như duy nhất để sáng tác văn học ở nước ta.

Cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại Việt Nam

2. Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại

- Cảm thông, chia sẻ với số phận con người bất hạnh

- Khẳng định, trân trọng, đề cao phẩm chất, tài năng, những quan hệ đạo đức tốt đẹp và khát vọng chính đáng của con người.

- Tố cáo những thế lực tàn bạo, chà đạp lên con người, bênh vực, bảo vệ và thay con người nói tiếng nói đấu tranh cho khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, khát vọng về công lí chính nghĩa của họ.

- Các tác phẩm: Cáo bệnh, bảo mọi người (Mãn Giác thiền sư), Binh Ngô đại cáo, Tùng, Cảnh ngày hè (Nguyễn Trãi), Ghét chuột, Nhàn... (Nguyễn Bỉnh Khiêm), Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm dịch), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), thơ Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều (Nguyễn Du), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu)...


3. Một số bài văn mẫu


Cảm hứng nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam: cảm thương xót thương số phận con người

Chủ nghĩa nhân đạo trước hết bắt đầu tự sự thương yêu con người, mà hạt nhân của nó chính là trái tim giàu lòng yêu thương của nhà văn. Balzac đã từng nói: “nhà văn là thư kí trung thành của thời đại”, Nam Cao thì nói: “sống đã, rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống của quần chúng nhân dân”, Enxa Triole: “Nhà văn là người cho máu”.

Đúng như vậy, quá trình sáng tạo là một quá trình gian khổ và quang vinh, đòi hỏi mỗi nhà văn phải dốc toàn bộ mồ hôi, nước mắt, thậm chí là máu của mình, dốc hết bầu máu nóng trong tim để giao cảm với đời, mở rộng tâm hồn để đón nhận những vang vọng tha thiết của cuộc đời.

Hơn ai hết họ đã khóc với những nỗi đau của thời đại, đã mỉm cười cùng nỗi hân hoan của thời đại, và hơn ai hết họ hiểu thấu những ước mơ tha thiết, những khát khao cháy bỏng của con người thời đại. Mỗi nhà văn, trong quá trình sáng tác, trước hết phải là “nhà nhân đạo” từ trong cốt tủy“(Sêkhov).

Bởi nếu không phải nhà nhân đạo, nếu không có tấm lòng yêu thương con người và sẵn sàng hy sinh cho con người, thì làm sao anh ta có thể viết, làm sao anh ta có thể, như loài phượng hoàng lửa trong truyền thuyết, trầm mình vào lửa đỏ để làm nên sự hồi sinh của cuộc sống – chính là những tác phẩm thẫm đẫm tính nhân đạo, thấm đẫm tình yêu thương con người, những tác phẩm như phập phồng hơi thở của thời đại, như đang chảy trong từng vân chữ những giọt máu của thời đại.

Những tác phẩm mà, mỗi trang giấy là một số phận được trải ra trước mắt người đọc, từng số phận là những tiếng kêu khóc đau đớn cho những kiếp người, từng con chữ cất lên đều ám ảnh, day dứt khôn nguôi.

Như vậy chúng ta thấy rằng, biểu hiện trước tiên của chủ nghĩa nhân đạo chính là sự thông cảm, thấu hiểu cho số phận con người. Điều này có ý nghĩa giáo dục rất sâu sắc. Như nhà văn Nam Cao đã từng nhận xét, tác phẩm văn học chân chính là tác phẩm văn học làm cho con người “gần người hơn”.

Cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại Việt Nam (ảnh 2)

Người đọc tìm đến tác phẩm văn học với nhiều mục đích, nhưng cao cả hơn cả vẫn là để thanh lọc tâm hồn, để tâm hồn mình phong phú hơn, trong sạch hơn. Đến với những số phận gửi gắm trong văn học, họ được sống nhiều hơn, được trải nghiệm nhiều hơn, nhưng hơn cả là, họ được xúc cảm nhiều hơn, suy tư nhiều hơn, họ được khóc với nỗi đau của đồng loại, được reo vui với niềm vui của đồng loại. Văn học giúp cho trái tim mỗi con người trở nên nhạy cảm hơn, bao dung hơn, nhân hậu hơn.

Chủ nghĩa nhân đạo không chỉ là những tư tưởng, quan điểm tôn vinh cái đẹp của con người, mà hơn hết, chủ nghĩa nhân đạo chính là sự tạo dựng nên cái đẹp trong tâm hồn của con người, mà ở trong trường hợp này, chính là người đọc. Quá trình thanh lọc tâm hồn này của người đọc là quá trình tự ý thức, từ đồng cảm, thương xót cho đồng loại mà bồi đắp, luyện rèn lên những giá trị trong tâm hồn mình (lòng nhân hậu, lòng nhân ái…).

Như vậy chúng ta thấy, nhờ có chủ nghĩa nhân đạo, văn học không chỉ phát hiện hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn người, mà còn giúp cho hạt ngọt ấy sáng hơn, đẹp hơn, và gieo vào từng tâm hồn những hạt ngọc long lanh, sáng ngời.


Cảm hứng nhân đạo trong Truyện Kiều

Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm.

Cốt lõi của cảm hứng nhân đạo là lòng thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người. Một tác phẩm mang cảm hứng nhân đạo khi nó ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người, không những thế phải đồng cảm xót thương những số phận bị chà đạp, lên án tố cáo những thế lực thù địch, đồng thời phải biết đồng tình với khát vọng và ước mơ chính đáng của con người.

Nguyễn Du yêu thương con người đến tận cùng, vì vậy các tác phẩm của ông cũng nhân đạo đến tận cùng. Chỉ qua ba đoạn trích Truyện Kiều và bài thơ Độc Tiểu Thanh kí, người đọc cũng hiểu được phần nào tấm lòng nhân đạo của thi hào Nguyễn Du.

Cảm thương cho những kiếp hồng nhan mà đa truân, tài tử mà đa cùng không phải là cảm hứng mới mẻ trong văn học, nhưng phải đến Nguyễn Du, người đọc mới thực sự đau lòng vì “những điều trông thấy” bởi Nguyễn Du viết về nỗi đau của người khác như nỗi đau của chính mình. Sắc đẹp khuynh thành và tài năng hiếm có của Thúy Kiều đã được Nguyễn Du đặc tả trong hai câu thơ:

“Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”

                      (Truyện Kiều)

Còn Tiểu Thanh, một con người có thật sống cách Nguyễn Du 300 năm ở Trung Quốc cũng là một người con gái đẹp, có tài thơ, còn để lại tập di cảo Tiểu Thanh ký. Truyện kể lại rằng trước khi chết, Tiểu Thanh đã khóc vì nhìn bức chân dung của mình và nhận ra mình đẹp. Đau đớn biết bao nhiêu khi một người con gái còn rất trẻ khi sắp chết lại thấy mình đẹp. Thế nhưng chính Nguyễn Du lại thấm thía hơn ai hết rằng: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, rằng: “Có tài mà cậy chi tài – Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Cuộc đời Thúy Kiều và Tiểu Thanh chính là minh chứng và cũng là nạn nhân của những bất công, phi lý của cuộc đời.

Thúy Kiều tài sắc như vậy nên người nàng yêu cũng phải là một văn nhân “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”. Hai người đã thề nguyền “Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai” và có vầng trăng trên trời làm chứng. Nhưng rồi tai họa ập đến với gia đình khiến Thúy Kiều đành phải hy sinh chữ tình vì chữ hiếu. Việc Kiều bán mình chuộc cha không phải vì nàng hành động theo đạo lý tam cương của Nho gia mà đó là đạo hiếu của kẻ làm con: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nhưng chỉ Nguyễn Du mới hiểu đến tận cùng bi kịch của Thúy Kiều khi phải trao duyên cho em, nhờ em thay mình trả nghĩa chàng Kim. Nàng giờ sống mà như đã chết. Biết bao đau đớn khi Kiều nhận mình là kẻ phụ bạc:

“Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

                                    (Truyện Kiều)

Màn trao duyên ấy chính là bi kịch đầu tiên mở ra quãng đời 15 năm “oan khổ lưu ly” của Thúy Kiều. Cuộc sống “êm đềm trướng rủ màn che” ngày xưa giờ đã thay bằng cuộc sống “Dập dìu lá gió cành chim – Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh”. Thúy Kiều không tìm thấy chút vui thú nào trong cuộc sống “bướm lả ong lơi” ấy, mà tâm trạng thực của nàng là vui gượng, là sầu, buồn, cuối cùng đọng lại ở nỗi đau, một nỗi đau luôn dày vò, không thể giải tỏa. Có nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng cái “giật mình mình lại thương mình xót xa” của cô Kiều mới đáng quý biết chừng nào. Nếu không có những phút “giật mình” ấy thì nàng Kiều cũng tầm thường như một cô gái làng chơi mất hết nhân phẩm. Cái “giật mình” ấy chứng tỏ Thúy Kiều đã đau đớn biết bao nhiêu khi nhân phẩm bị nhơ bẩn, “Mặt sao dày gió dạn sương – Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”. Nàng phẫn uất, đay nghiến thực trạng phũ phàng, cuộc sống bị cầm tù trong một vòng tròn luẩn quẩn không lối thoát:

Cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại Việt Nam (ảnh 3)

“Đã cho lấy chữ hồng nhan

Làm cho cho hại, cho tàn cho cân

Đã đày vào kiếp phong trần

Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi”

Người đọc dường như không phân biệt được đâu là lời của nhân vật, đâu là lời của nhà thơ vì Nguyễn Du đã nhập thân để hiểu tận cùng nỗi đau của Thúy Kiều và bất bình thay cho nàng. Thúc Sinh xuất hiện trong cuộc đời Kiều không phải chỉ như một khách làng chơi mà còn như một người tình, một người chồng, một ân nhân. Chính Thúc Sinh đã chuộc nàng ra khỏi xanh và cưới nàng làm vợ lẽ. Nhưng mối duyên này ngắn ngủi. Thúc Sinh phải về quê báo tin “vườn cũ thêm hoa” với vợ cả là Hoạn Thư. Cảnh từ biệt của hai người không chỉ có buồn, có lưu luyến như các cuộc chia ly thông thường khác mà còn có dự cảm về một cuộc chia tay vĩnh viễn:

“Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường”

Những nỗi đoạn trường cứ bám lấy cuộc đời Thúy Kiều như một định mệnh, không cho nàng được sống thanh thản, vui vẻ, dù là ngắn ngủi.

Tiểu Thanh cũng vậy. Nàng tài sắc là thế mà phải làm lẽ, sống trong sự dày vò của người vợ cả độc ác. Tiểu Thanh không giống Thúy Kiều, 16 tuổi đã phải dấn thân vào kiếp đoạn trường, nhưng cảnh sống bị cầm tù ở núi Cô Sơn, ngày ngày lo sợ bị người vợ cả hãm hại thì có khác gì cái chết. Một cái chết dần dần, mòn mỏi, và không kém phần đau đớn. Sau 300 năm chỉ có Nguyễn Du lặng lẽ viếng nàng bên khung cửa qua tập di cảo còn sót lại. Cảnh đẹp Tây Hồ cũng chịu số phận truân chuyên của giai nhân:

“Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn”

(Độc Tiểu Thanh ký)

Nguyễn Du xót thương cho số phận của “văn chương”, của “son phấn” cũng bị liên lụy vào nỗi đoạn trường bởi chúng mang cái mệnh của con người:

“Chi phấn hữu thần liên tử hận

Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

(Son phấn có thần chôn vẫn hận

Văn chương không mệnh đốt còn vương)

(Độc Tiểu Thanh ký)

Vẫn biết rằng “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” nhưng đó vẫn là “nỗi hờn kim cổ” mà Nguyễn Du muốn chất vấn trời cao, hay chất vấn cuộc đời, xong rốt cuộc vẫn không có lời giải đáp. Chỉ biết rằng đó là “phong vận kỳ oan” (nỗi oan lạ lùng) của những kẻ mang nết phong nhã. Hồng nhan đa truân, tài tử đa cùng là cái án tiền định của những người như Thúy Kiều, Tiểu Thanh phải mang. Tiếng khóc của nàng Kiều trước mộ Đạm Tiên cũng chính là tiếng khóc của nàng cho chính mình mai sau và là tiếng khóc cho những phận đàn bà nói chung:

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

(Truyện Kiều)

Rốt cuộc thì Đạm Tiên, Thúy Kiều hay Tiểu Thanh dù số phận có nhiều điểm khác nhau thì cũng là “cùng một lứa bên trời lận đận”. Nguyễn Du cũng tự coi mình là người cùng hội cùng thuyền với những người mắc nỗi oan lạ lùng vì vết phong nhã. Tố Như đau cho số phận của Tiểu Thanh cũng là tự thương cho chính những lận đận của mình, bởi vậy mới khao khát tri kỷ:

“Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa

Người đời ai khóc Tố Như chăng)

(Độc Tiểu Thanh ký)

“Khấp” có nghĩa là khóc thầm, còn “khóc” là khóc lớn, khóc thành tiếng. Nguyễn Du cả đời khóc thương cho những bất hạnh của con người nhưng cuối cùng cũng chỉ mong được người đời sau khóc thầm. Đó là khao khát tri âm khiêm nhường của một con người rất hiểu đời.

Đọc “Truyện Kiều” và “Độc Tiểu Thanh kí”, Nguyễn Du luôn hỏi trời về những đau khổ của con người nhưng thực tế trong tác phẩm, Nguyễn Du lại cho thấy nguyên nhân nhưng đau khổ của con người là do những thế lực thù địch chà đạp lên cuộc sống và quyền sống chính đáng của con người. Nếu không có chế độ phong kiến với sự thống trị của đồng tiền thì Kiều đâu có 15 năm lênh đênh trong bể đoạn trường, nếu không có chế độ đa thê thì Tiểu Thanh chắc cũng không có số phận bi kịch như thế. Nguyễn Du đau nỗi đau của con người, hiểu thấu được nguyên nhân của những bi kịch ấy nhưng Nguyễn Du bất lực bởi chính ông cũng là nạn nhân của những bể dâu cuộc đời. Nỗi đau của Nguyễn Du, sự cô đơn của Nguyễn Du, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đều xuất phát từ một trái tim nghệ sĩ lớn.


Cảm hứng nhân đạo trong Độc Tiểu Thanh kí Nguyễn Du

     Đại thi hào Nguyễn Du là nhà văn, nhà thơ nhân đạo và hiện thực lớn của văn học trung đại Việt Nam, thơ văn của ông tập trung thể hiện số phận bi đát của những con người sống trong xã hội phong kiến với những bất công, đau đớn. Có lẽ, đề tài về những con người tài hoa bạc mệnh được Nguyễn Du tập trung khai thác, bên cạnh truyện thơ Nôm Truyện Kiều, Nguyễn Du còn khắc họa hình ảnh của một số phận khác, con người khác, đó là nàng Tiểu Thanh trong "Độc Tiểu Thanh kí".

     Độc Tiểu Thanh kí được Nguyễn Du viết trong một lần đi sứ Trung Quốc. Bài thơ chính là lời khóc thương, xót xa của Nguyễn Du dành cho nàng Tiểu Thanh. Tiểu Thanh là một cô gái có tài, có sắc, sống khoảng đầu đời Minh (Trung Quốc). Năm 16 tuổi, nàng làm vợ lẽ một người họ Phùng. Vợ cả ghen ghét đẩy nàng sống một mình trên núi Cô Sơn bên cạnh Tây Hồ đến đau buồn mà chết ở tuổi 18. Nguyễn Du đã sáng tác khi được viếng mộ nàng Tiểu Thanh, biết về con người tài hoa nhưng cuộc đời bạc mệnh đó. Đọc được những vần thơ còn sót lại của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã xót xa, thương cảm thay cho số phận nàng. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Du viết:

Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khư,

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)

     Hai câu đề, Nguyễn Du đã khắc họa khung cảnh Tây Hồ. Đó là sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại của cảnh vật. Cảnh đẹp xưa đã không còn, tất cả chỉ còn lại sự hoang tàn, hiu hắt và ảm đạm. Nếu xưa kia đây là một khu vườn có hương, có sắc thì bây giờ chỉ là bãi đất hoang. Qua đó, ta thấy được sự khắc nghiệt của thời gian tàn phá. Khu vườn đấy là nơi Tiểu Thanh đã từng sống, nhưng lại là nơi nàng chôn vùi tuổi xuân. Trong cơn đau, nàng gửi gắm nỗi đau ấy qua những vần thơ. Nỗi đau của Tiểu Thanh khiến Nguyễn Du phải thổn thức khi đọc phần dư còn sót lại của tập thơ nàng đã sáng tác, phải xót thương thay cho số phận của nàng. Qua hai câu thơ, ta bắt gặp được sự đồng cảm của một linh hồn cô đơn với với một kiếp người đơn độc giữa cuộc đời. Đó là sự giao cảm giữa con người và cảnh vật, giữa tâm và cảnh. Hai câu thực là sự tiếc thương vô hạn đến vẻ đẹp và tài năng của nàng:

Chi phấn hữu thần thiên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

( Son phấn có thần chôn vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt còn vương)

     Ở hai câu thơ này, ta thấy Nguyễn Du nhắc đến sắc đẹp và tài năng của Tiểu Thanh. Nàng là một con người tài sắc vẹn toàn nhưng yểu mệnh. Son phấn- chôn vẫn hận, văn chương- bị đốt dở, phải chăng, số phận của những người con gái có sắc, tài năng lại thường ngắn ngủi. Bị "chôn, đốt" đấy hả phải chăng chính là sự vùi dập, ghen ghét, đố kị của người vợ cả đối với những con người đẹp và tài. Nói rộng ra hơn, đó là sự ganh ghét của xã hội phong kiến đối với những con người như Tiểu Thanh. Từ đây, ta thấy được triết lý về số phận con người trong xã hội phong kiến: tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân,.. cái đẹp, cái tài thường sẽ bị vùi dập. Nhưng cho dù bị vùi dập như thế nào đi nữa thì nó vẫn trường tồn bền bỉ theo thời gian: vẻ đẹp chôn vẫn hận, văn chương dù có đốt vẫn cứ mãi vương vấn đến ba trăm năm sau. Hai câu thơ đã giúp ta thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc trong thơ của Nguyễn Du: luôn xót thương, đồng cảm đến những con người vì sắc, vì tài mà bị hủy hoại.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kì oan ngã tự cư.

( Nỗi hờn kim cổ trời khôn thấu,

Cái án phong lưu khách tự mang.)

     Ở hai câu thơ này, Nguyễn Du khẳng định nỗi hờn xưa nay hỏi trời không thấu đó là nỗi hờn của kẻ tài hoa nhưng bạc mệnh. Đó là nỗi hận truyền kiếp, cũng là sự đồng cảm sâu sắc của tác giả với nàng Tiểu Thanh: mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã.

Rằng hồng nhan tự thuở xưa

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu

                                                        (Truyện Kiều)

     Hai câu thơ thể hiện nỗi phẫn uất sâu sắc đến "thiên nan vấn"- khó hỏi trời được. Nỗi hận kia không chỉ của riêng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà còn của tất cả những bậc nhân tài trong xã hội phong kiến. Câu thơ mang tính khái quát thể hiện đau đớn trước một thực tế vô lí: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc. Có lẽ, nhờ đó mà thường có sự đồng cảm trong những cuộc gặp gỡ của tài tử giai nhân. Tác giả thực sự tri âm với người con gái bạc mệnh, để tự nhận mình cũng mắc chung một nỗi oan khiên như nàng vì nết phong nhã. Đó là nỗi đau, là tiếng khóc thương trước nghịch lý và trái ngang cuộc đời. Kết thúc bài thơ, Nguyễn Du đã bật ra tiếng khóc thương bằng câu hỏi tu từ:

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

( Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

     Tiếng khóc thương này là tiếng khóc của một người tài hoa thương cho số phận của một số phận hồng nhan đa truân. Đó là kết quả của sự dồn nén cảm xúc của tác giả. Nguyễn Du khóc thương cho số phận của Tiểu Thanh, nhưng lại băn khoăn cho số phận của chính mình, Tiểu Thanh bạc mệnh nhưng ba trăm năm này có Nguyễn Du khóc thương, không biết sau khi Nguyễn Du chết thì ba trăm năm nữa ai sẽ khóc thương cho mình? Đó chính là nỗi niềm thương cảm của một tài năng khóc thương một tài năng và cho chính mình, đó là tiếng khóc của một cánh chim lẻ loi, nỗi cô đơn của nghệ sĩ lớn "Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya" (Xuân Diệu).

     Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, đó là nỗi niềm của một tài năng trước sự vùi dập của xã hội phong kiến. Sự đồng cảm với số phận của Tiểu Thanh trong bài thơ cũng chính là những xót xa của Nguyễn Du suy tư về số phận bất hạnh, oan trái của người phụ nữ có tài sắc. Qua đó, ta thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc trong thơ văn Nguyễn Du.

icon-date
Xuất bản : 29/03/2022 - Cập nhật : 29/11/2022