logo

Các thể loại văn học trung đại Việt Nam?

Câu hỏi: Các thể loại văn học trung đại Việt Nam?

Trả lời: 

Thể loại của văn học trung đại (từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX)

Văn học chữ Hán

      Thành phần văn học chữ Hán xuất hiện sớm, tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của văn học trung đại, bao gồm cả thơ và văn xuôi.

      Các thể loại của văn học phong phú gồm chiếu, biểu, hịch, cáo, truyện truyền kì, kí sự, tiểu thuyết, chương hồi, phú, thơ cổ phong, thơ Đường luật…

Văn học chữ Nôm

      Văn học chữ Nôm bao gồm các sáng tác bằng chữ Nôm, ra đời muộn hơn văn học chữ Hán (khoảng cuối thế kỉ XIII), tồn tại, phát triển đến hết thời kì văn học trung đại.

      Thể loại văn học chủ yếu là thơ, rất ít văn xuôi. Trong văn học chữ Nôm, chỉ một số thể loại tiếp thu từ Trung Quốc như phú, văn tế, thơ Đường luật, còn phần lớn là thể loại văn học dân tộc như ngâm khúc (viết theo thể song thất lục bát), truyện thơ (lục bát), hát nói (viết theo thể thơ tự do kết hợp với âm nhạc), hoặc thể loại văn học Trung Quốc đã được Việt hóa như thơ Đường luật thất ngôn xen lục ngôn.

[CHUẨN NHẤT] Các thể loại văn học trung đại Việt Nam?

Hãy cùng Top lời giải tìm hiểu về văn học trung đại Việt Nam nhé!


1. Khái niệm về thể loại văn học

      Thể loại là nơi thể hiện rõ nhất đặc trưng loại hình văn học vì là nơi nhận ra diện mạo, đường nét của một loại hình văn học. Loại (loại thể văn học) nhằm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm. “Đó là sự tổ chức, sự sắp xếp các tác phẩm  có cùng phương thức tiếp cận đối tượng nghệ thuật, có chung phương thức cấu trúc hình tượng và chung phương thức cấu trúc lời văn vào thành từng loại hoặc từng thể” (TS. Lê Văn Dương) .

      Thể là khái niệm nhỏ hơn loại, nằm trong loại hay còn gọi là thể loại. Thể loại văn học là một hình thức tổ chức ngôn từ theo một dạng thức nhất định nào đó thể hiện cảm xúc, tư tưởng của con người trước các hiện tượng đời sống.


2. Những đặc điểm lớn về nội dung văn học trung đại Việt Nam từ đầu thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX

a. Chủ nghĩa yêu nước

- Là nội dung lớn xuyên suốt.

 - Biểu hiện:

 + Gắn với tư tưởng “ trung quân ái quốc”.

 + Ý thức độc lập tự chủ, tự cường, tự hào dân tộc.

  + Lòng căm thù giặc, xót xa bi tráng lúc nước mất nhà tan.

+ Tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thu.

 + Biết ơn ca ngợi những người hi sinh vì nước.

+ Trách nhiệm khi xây dựng đất trong thời bình. + Tình yêu thiên nhiên.

* Tác phẩm tiêu biểu : Nam quốc sơn hà , (Lý Thường Kiệt) , Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)

b. Chủ nghĩa nhân đạo

- Cũng là nội dung lớn xuyên suốt.

 - Bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo, từ VHDG, tư tưởng Phật giáo, Nho giáo , Đạo giáo.

 - Biểu hiện:

+ Lối sống “ thương người như thể thương thân ”.

 + Lên án tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp con người.

 + Khẳng định đề cao phẩm chất tài năng, những khát vọng chân chính ( quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do, công lí, chính nghĩa… ) của con người

 + Cảm thông chia sẻ với số phận bất hạnh của con người.

* Tác phẩm tiêu biểu: Truyện Kiều (Nguyễn Du) ,Cung Oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn)

c. Cảm hứng thế sự:

 -  Bày tỏ suy nghĩ, tình cảm về cuộc sống con người, về việc đời.

 - Tác giả hướng tới hiện thực cuộc sống, xã hội đương thời để ghi lại “những điều trông thấy”.

- Viết về nhân tình thế thái: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

-  Đời sống nông thôn: Nguyễn Khuyến.

-  Xã hội thành thị: Trần Tế Xương.

3. Quan điểm thể loại văn học trung đại Việt Nam

      Một trong những vấn đề khó khăn khi nghiên cứu văn học trung đại là xác định hệ thống thể loại, vì chính hệ thống này có vai trò cụ thể hóa khái niệm văn học. Có thể nói văn học là một cơ thể hoàn chỉnh mà các thể loại là các bộ phận của cơ thể đó. Trong suốt quá trình phát triển của văn học trung đại đường biên của hệ thống thể loại này có những biến động nhất định: thể loại này mờ đi, thể loại khác xuất hiện, thể loại này vào trung tâm, thể loại kia ra ngoài rìa, tạo thành một dòng chảy uốn lượn, biến đổi bất tận.

      Thể loại văn học trung đại là một hiện tượng rất bề bộn, cách phân loại cũng bề bộn. Trong lịch sử văn học Việt Nam, thể loại đầu tiên được sưu tập là thơ (thế kỉ XV), tiếp đến là phú (cuối thế kỉ XV), rồi các văn tuyển của Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, không kể các tập thơ, tập văn riêng của tác giả.

      Bảng phân loại của Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử và của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí nếu xét một cách nghiêm khắc thì đều không phải là phân loại văn học. Mặc dù Lê Quý Đôn có ý thức rõ ràng về thể loại “Văn không thể tạp loạn, thể tài phải tự khác nhau” (Lời tựa Đại Việt thông sử). Nhưng phân loại là một công việc rất khó, đặc biệt là trong điều kiện văn sử bất phân.

      Quyển sách đầu tiên trình bày các thể thơ văn cổ ở nước ta có lẽ là Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính, trong đó tác giả kể đến: thơ, phú, văn tế, minh, trâm, tán, ca ngâm khúc điệu, các ca khúc (gồm lục bát, song thất lục bát), các điệu ca khúc, diễn kịch, đối liên, kinh nghĩa, văn sách, tứ lục, hịch văn, văn xuôi, văn ký sự, tựa. Tiếp đến là Quốc văn cụ thể của Bùi Kỷ, giới thiệu các thể thơ văn sau: lục bát, song thất lục bát, hát xẩm, hát nói miễu, thơ cổ phong, Đường luật, minh, trâm, tán ,từ khúc, phú , văn tế, chiếu, biểu, cáo, hịch, trướng, kinh nghĩa, văn sách, tựa, truyện, ký, bia, luận, chèo, tuồng. Ở đây đã có mặt một số thể văn dân gian, nhưng lại thiếu vắng các thể ngâm, truyện Nôm, vãn, các thể truyền kỳ, thực lục, kệ, nhưng lại có văn kinh nghĩa. Có thể nói đó chưa phải là các công trình giới thiệu đầy đủ các thể loại văn học trung đại với một ý thức khoa học hoàn bị.

      Công trình Thơ ca Việt Nam (hình thức và thể loại) của Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức đã giới thiệu có hệ thống các thể và hình thức thơ ca, nhưng chủ yếu mới tính riêng về thơ ca, mặc dù trong sách có bao gồm cả phú, văn, tế, văn xuôi cổ. Có thể nói cho đến nay một công trình nghiên cứu giới thiệu đầy đủ các thể loại văn học trung đại Việt Nam vẫn chưa có. Nhà Việt Nam học Nga Niculin trong sách Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX(1977) đã trình bày quá trình văn học Việt Nam trung đại theo tiến trình hình thành  một số thể loại theo quan niệm loại hình trung đại. Ông chú ý trước hết tới văn bia thời Lý- Trần. Thơ bang giao, văn chính luận, kệ (thế kỷ X-XII), thơ (thế kỷ XIII-XV), sử ký, truyện truyền kỳ, dã sử, kể vè, hát xẩm (thé kỷ XVI-XVII), truyện Nôm, vãn, ngâm khúc (XVIII-XIX), thơ, ca dao, vè, ca trù, văn tế, tiểu thuyết. Tác giả đã chú ý tới nội dung của hình thức trong quá trình phát triển của thể loại.

      Nhìn chung bức tranh hệ thống thể loại văn học trung đại đầy mâu thuẫn, cần được hình dung trên hai mặt. Một mặt là hệ thống thể loại theo nghĩa rộng gồm tất cả các thể loại văn-sử-luận bất phân. Mặt khác, là hạt nhân thể loại văn học nghệ thuật sẽ phát triển và tồn tại như một hiện tượng thẩm mĩ. Sự mâu thuẫn trong hai cách nhìn nhận thể loại văn học trung đại của người đương thời và hiện đại là do thứ nhất, trong văn học trung đại không có một thể loại nào mang được tính chất thuần túy văn học. Không phải chỉ riêng cáo, chiếu, biểu, sử ký, kệ, … là như vậy mà ngay thơ, phú cũng vậy: thơ dâng tỏ chí, thơ bang giao, thơ mừng bạn lên chức, thơ mừng đẻ con trai…Nhưng mặt khác, thứ hai, không có thể loại nào là không thể đạt tới chất văn học, do khả năng tự biểu hiện và khă năng văn chương của ngôn từ, điều này tùy thuộc vào tài năng, mức độ biểu hiện tình cảm của tác giả. Bình Ngô đại cáo, Hịch tướng sĩ đều là thiên cổ hùng văn mà không phải mọi bài cáo, hịch đều được như vậy. Thứ ba, chất văn học của chúng không nằm khít trong quy phạm thể loại mà nằm trong xu thế siêu việt các quy phạm ấy. Người trung đại thích noi theo, vay mượn các chất liệu truyền thống nhưng chính học cũng thích đổi mới. Nhiều tác phẩm truyện Nôm có chữ “tân” trong nhan đề để tác giả thông báo cho người đọc tính sáng tạo của mình: Bướm hoa tân truyện, Sơ kính tân trang, Đoạn trường tân thanh,… 

      Do đó, thứ tư, việc phân loại tác phẩm văn học trung đại không thể tuân thủ giản đơn nguyên tắc  phân loại cổ điển có từ thời cổ đại: tự sự, trữ tình, kịch, bởi đó là các phương thức biểu hiện thuần túy được phân hóa từ nghệ thuật nguyên hợp cổ đại. Ở đây, cần tôn trọng sự tạo thành tự nhiên của các thể loại và tên gọi của chúng, đồng thời coi trọng cấu tạo loại văn, tiến hành miêu tả, phân tích đặc trưng nghệ thuật của chúng. Do đó, việc giới thiệu, mô tả sự xuất hiện các thể loại văn học trong trật tự thời gian lịch sử như các sách Việt Nam cổ văn học sử (Nguyễn Đổng Chi, 1944), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX (Niculin, 1977) và sách của các nhà nghiên cứu Việt Nam khác là có phần hợp lý hơn. Nhưng mặt khác, việc xác định đặc trưng thể loại không thể chỉ theo hình thức quy phạm cổ truyền, mà cần xét chúng trong tính nội dung nghệ thuật, chức năng biểu đạt theo cấu trúc của văn bản biểu hiện.

      Cho đến nay, vẫn chưa có một hệ thống phân loại văn học trung đại hợp lý được cả giới khoa học thừa nhận. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu vẫn tìm tòi không ngừng và đề xuất các phương án khác nhau.

      Nguyễn Huệ Chi trong bộ sách Thơ văn Lý – Trần đã đề xuất mô hình phân thành năm loại: thơ ca, biền văn, tản văn, tạp văn, truyện kể. Đây là phân loại theo hình thức tổ chức ngôn từ là chính, phù hợp với đặc trưng của văn học trung đại.

      Gần đây còn xuất hiện cách phân loại tác phẩm theo phương thức định hình văn bản. Theo phương thức, phương tiện định hình văn bản này, có thể chia ra thành văn bản viết tay, văn bản khắc, văn bản in và đã xuất bản tập văn khắc Hán-Nôm Việt Nam. Văn khắc bao gồm một phạm vi rộng, chẳng những bao hàm từ bia, minh, đối, liễn, biển…mà còn gồm cả thơ đề vịnh xướng họa khắc trên các di tích, hang động. Văn khắc tồn tại ở những nơi sinh hoạt công cộng như đình, chùa, đền, miếu, từ đường, cầu, điếm, chợ.. Cách phân loại này do V.Rogiodetxtvenxki đề xướng và Nguyễn Quang Hồng vận dụng để chỉ phương thức tồn tại, lưu trữ của văn học trung đại trong không gian, thời gian. Cách phận loại này tất yếu sẽ nêu lên một số thể loại đặc biệt mà trước giờ ít được nghiên cứu và chưa có vị trí trong văn học sử, như câu đối và hoành phi, những thể loại sáng tác không phải để chép vào sách.

      Văn học trung đại trước hết là văn chương của ngôn từ, là nghệ thuật của từ ngữ. Do đó việc phân loại văn học trung đại gắn liền với việc phân hóa về thể loại văn – hình thức mang nội dung cố định để tổ chức văn bản.

      Sách Thi pháp văn học trung đại của Trần Đình Sử dựa trên các yếu tố cấu thành nội dung và hình thức, mục đích sáng tác, phân chia văn học trung đại thành các nhóm : Nhóm 1: các thể thơ trữ tình, nhóm 2: phú và các thể văn, nhóm 3: thể loại truyện chữ Hán, nhóm 4: diễn ca lịch sử và truyện thơ Nôm. Chẳng hạn, nhóm các thể văn được chia thành 7 nhóm nhỏ gồm các thể loại như sau:

-  Các thể loại chiếu, cáo, sách, dụ, hịch,… mà chủ thể phải là thiên tử hoặc chủ tướng, dù người viết là ai

-  Các thể loại tấu, nghị, khải, biểu,… chủ thể là thần tử trình bày với thiên tử

-  Các thể loại thư, luận, thuyết, biện bàn về tư tưởng, đạo lý, chân ngụy

-  Các thể văn tế, ai điếu hướng tới người đã mất

-  Các thể bi, minh,chí viết để ghi nhớ lâu dài, khắc trên kim thạch

-  Các thể tự bạt

-  Các thể truyện, trạng ghi về hành trạng, sự tích của một con người

-  Các thể ký ghi đủ loại việc, cốt để ghi nhớ, từ du ký đến tạp ký, ký sự

      Cách chia này cho phép giới thiệu khá toàn diện về các thể loại văn với diện mạo và đặc điểm của chúng, tuy nhiên cách phân chia thể loại văn học trung đại nào cũng chỉ đều là tương đối.

icon-date
Xuất bản : 02/03/2022 - Cập nhật : 02/03/2022