logo

Các bộ phận hợp thành của văn học Việt Nam?

icon_facebook

Câu hỏi: Các bộ phận hợp thành của văn học Việt Nam?

Trả lời: 

Văn học Việt Nam được hình thành dựa trên kết hợp giữa hai bộ phận văn học lớn của dân tộc là : VĂN HỌC DÂN GIAN và VĂN HỌC VIẾT

1. Văn học dân gian:

     Là văn học truyền miệng, sáng tác tập thể của nhân dân lao động. Cũng có khi có sự tham gia của tầng lớp trí thức nhưng phải tuân thủ những đặc trưng của VHDG và trở thành tiếng nói tình cảm chung của nhân dân.

[CHUẨN NHẤT] Các bộ phận hợp thành của văn học Việt Nam?

- Các thể loại chủ yếu: Thần thoại, Sử Thi, Truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè truyện thơ, chèo.

- Những đặc trưng tiêu biểu: Tính truyền miệng, tính tập thể, gắn bó với những sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.

2. Văn học viết:

Là sáng tác được ghi laị bằng chữ viết, là sáng tạo của cá nhân và mang dấu ấn của tác giả.

a. Chữ viết của văn học Việt Nam:

     Chữ Hán là văn tự của người Trung Quốc (người Hán) mà người Việt ta mượn dùng bằng cách đọc theo âm Việt gọi là âm đọc Hán Việt, tức là chữ Hán đọc theo âm Việt. Chữ Nôm là chữ viết cổ của người Việt , dựa vào chữ Hán mà đặt ra. Chữ Quốc ngữ là loại chữ viết sử dụng chữ cái La Tinh để ghi âm tiếng Việt.Ở đầu thế kỷ XX ,một số tác giả sáng tác bằng chữ Hán , chữ Nôm và tiếng Pháp.Song về cơ bản, ó thể nói văn họcViệt Nam từ thế kỷ XX trở đi là nền văn học viết bằng chữ Quốc ngữ . Cả văn học chữ Nôm và văn học chữ Quốc ngữ đều viết bằng tiếng Việt.

[CHUẨN NHẤT] Các bộ phận hợp thành của văn học Việt Nam? (ảnh 2)

b. Hệ thống thể loại của văn học viết :

- Từ thế kỷ X đến hết TK XIX : Trong VH chữ Hán có 3 thể loại chính : văn xuôi , thơ , văn biền ngẫu. Ở VH chữ Nôm , phần lớn các thể loại là thơ và văn biền ngẫu.

- Từ đầu TK XX đến nay : ranh giới giữa loại hình và loại thể VH tương đối rạch ròi . Loiaj hình tự sự có tiểu thuyết , truyện ngắn , ký .Loại hình trữ tình có thơ trữ tình và trường ca . Loại hình kịch có nhiều thể loại như kịch nói, kịch thơ , ...

Hãy cùng Top lời giải tìm hiểu thêm về văn học Việt Nam nhé!


1. Khái quát về văn học Việt Nam

- Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. Khi chưa có chữ viết, nền văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian; khi có chữ viết, nền văn học Việt Nam mới bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết.

- Văn học thành văn chịu ảnh hưởng của văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Văn học viết cũng có tác động trở lại đối với văn học dân gian trên một số phương diện. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học viết cũng như vai trò, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học thể hiện trọn vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm.

- Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều dân tộc khác trên thế giới có những thể loại chung và riêng hợp thành một hệ thống. Mỗi thể loại phản ánh cuộc sống theo những nội dung và cách thức riêng. Hệ thống văn học dân gian Việt Nam gồm có: sử thi, truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, thơ, chèo...

- Sau hơn 10 thế kỷ hình thành và phát triển, văn học viết Việt Nam đạt được những thành tựu nhất định và vẫn đang tiếp tục "dòng chảy" của mình để có thể hội nhập vào nền văn học chung của thế giới.


2. Các thể loại của văn học Việt Nam

a. Thể loại văn học dân gian

- Văn học dân gian hay còn được biết đến với cái tên khác là văn học khẩu truyền, tức là truyền miệng. Đây là thể loại văn học với những sáng tác truyền miệng của các tầng lớp nhân dân, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát triển dần qua từng thời kỳ lịch sử đến nay.

* Văn học dân gian Việt Nam có những đặc trưng cơ bản như sau:

- Tính nguyên hợp thể hiện sự hòa lẫn nhiều hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại văn học. Đối với văn học dân gian thì không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà còn là sự kết hợp của rất nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau. Cụ thể các phương tiện này tồn tại dưới 3 dạng là ẩn (tồn tại trong trí nhớ của những tác giả dân gìn), cố định (thể hiện bằng văn tự) và hiện (tồn tại qua diễn xướng).

- Văn học dân gian có tính tập thể bởi đó là những sáng tác của nhân dân nhưng không phải tất cả nhân dân đều là tác giả. Tính tập thể này thể hiện chủ yếu thông qua quá trình con người sử dụng các tác phẩm văn học.

- Tính truyền miệng: đây là đặc trưng nổi bật của thể loại văn học dân gian và nó được lưu truyền từ đời này qua đời khác thông qua hình thức là kể chuyện.

- Tính dị bản: cũng bởi văn học dân gian có tính truyền miệng từ đời này sang đời khác nên chắc chắn sẽ có dị bản khi được kể từ người này qua người kia.

 Toàn bộ các đặc trưng trên đều có sự liên kết chặt chẽ, thống nhất với nhau và làm nên những giá trị cốt lõi, cơ bản của văn học dân gian Việt Nam 

 Trong văn học dân gian thì lại bao gồm nhiều thể loại nhỏ khác như là thần thoại, truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè,..

b. Thể loại văn học viết

Khác với văn học dân gian, văn học viết hình thành đã "mở ra một thời kỳ lịch sử mới, oanh liệt, rực rỡ" (Đặng Thai Mai). Sự va chạm gần 10 thế kỷ giữa nền Hán học và văn hóa dân gian Việt tuy có phần làm văn hóa, tín ngưỡng, phong tục cũng như nghệ thuật của dân Việt bị "sứt mẻ, mất mát" nhưng cũng tác động không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của văn học viết.

Nhiều phát hiện mới của khảo cổ học chứng minh từ thời đại Hùng Vương, người Việt đã có nền văn hóa với nhiều nét cá tính khá rõ rệt, thể hiện qua nhiều thần thoại và truyền thuyết. Tiếp theo một thời gian dài tiếp xúc với nền văn hóa Trung Quốc tiên tiến hơn nhiều mặt, người Việt đã biết cách chuyển hóa chữ Hán trên nền tảng văn hóa Việt, đọc theo thanh điệu của tiếng Việt mà vẫn hiểu được một cách chính xác các giá trị tư tưởng, văn hóa, triết học của Trung Quốc lẫn của người Việt.

Từ truyền thống văn hóa có sẵn, Hán học tiếp sức cho người Việt hình thành nền văn học độc lập của dân tộc và là nền tảng, cơ sở để sáng tạo ra chữ viết đầu tiên: chữ Nôm.

Sự thịnh vượng của Hán học thời kỳ nước Việt giành được quyền tự chủ so với thời kỳ nội thuộc cho thấy tính trang trọng, thâm trầm của loại chữ viết này rất phù hợp với kiểu nhà nước phong kiến và ý thức hệ Nho giáo lúc bấy giờ. Thời kỳ này, trường học, khoa thi đều dùng chữ Hán như "phương tiện giao tế tao nhã" để ghi chép lịch sử, truyền đạt ý chỉ, thể hiện quan hệ, tình cảm vua-tôi và các tầng lớp nho sĩ. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, văn học viết dần có được những vận hội mới, tạo được vị trí độc lập của mình sau thời gian dài văn-sử-triết bất phân. 3 dòng tư tưởng Nho-Phật-Lão trở thành nguồn cảm hứng cho văn chương học thuật. Bên cạnh đó, đời sống tích cực gần thiên nhiên của con người thời kỳ này còn mang lại cho văn học nhiều ẩn dụ cao nhã nhưng cũng rất nhân tình.

Về mặt thể loại, hình thức; văn học viết thời kỳ đầu chủ yếu là thơ với hai loại: cổ thể và cận thể – tôn trọng khuôn phép mẫu mực của thơ ca Trung Quốc; ngoài ra theo Dương Quảng Hàm (trong quyển Văn học Việt Nam) thì văn viết trong thời kỳ đầu "có nhiều thể, nhưng có thể chia ra làm ba loại lớn" gồm:

Vận văn: tức loại văn có vần

Biền văn: tức loại văn không có vần mà có đối (như câu đối)

Tản văn hoặc văn xuôi: tức loại văn không có vần mà cũng không có đối.

Cuối thế kỷ 18 trở đi, khi chữ Nôm hình thành thì văn học viết có vài chuyển biến trong sáng tác: văn học từ chiếu cung đình dần thâm nhập vào đời sống thường nhật (văn chương bình dân) và cái tôi cá nhân bắt đầu được đề cập đến. "Bà chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều (của Nguyễn Du) được xem là những thành tựu nổi bật của chữ Nôm trong văn học Việt Nam.

Từ khi có việc truyền bá chữ Quốc ngữ vào Việt Nam, diện mạo văn học có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Ngoài ảnh hưởng các dòng tư tưởng truyền thống phương Đông, sự thâm nhập của phương Tây mang đến cho văn học viết con đường "hiện đại hóa" từ hình thức, thể loại đến tư tưởng và nội dung sáng tác. Riêng về thể loại nếu so sánh văn học viết Việt Nam giữa hai thời kỳ lớn: Văn học trung đại và văn học hiện đại thì có thể hiểu một cách tổng quát về các thể loại chính như sau:

  • Thời kỳ văn học trung đại (từ thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 19) gồm: tự sự và trữ tình.
  • Thời kỳ văn học hiện đại (từ đầu thế kỷ 20 đến nay) gồm: tự sự, trữ tình, kịch.
[CHUẨN NHẤT] Các bộ phận hợp thành của văn học Việt Nam? (ảnh 3)

c. Văn học mạng

- Một trong các thể loại văn học của Việt Nam mới và độc đáo nhất đó chính là văn học mạng. "web fiction" - một trong những khái niệm xuất hiện đầu tiên vào những năm thập niên 20 trong các luận văn khoa học, giáo trình đa cấp độ, dưới một cái tên mới mẻ, đó chính là văn học mạng.

- Văn học mạng là những tác phẩm, sáng tác được xuất bản trên phạm vi không gian thế giới ảo. Không gian ảo ở đây chính là internet. Làn sóng thông tin, công nghệ toàn cầu phát triển một cách nhanh chóng và bút phá, văn học mạng do đó không được đưa vào danh sách thể loại của văn học viết hay văn học khẩu truyền (truyền miệng) mà tồn tại một cách độc lập.

- Một sáng tác trong giai đoạn đầu tiên của văn học mạng tiêu biểu có thể kể đến bài thơ "Đôi dép" - một sáng tác của Nguyễn Trung Kiên. Tác phẩm này thường được giới chuyên gia lấy làm dẫn chúng, điều đó cho thấy công nghệ thông tin có sức ảnh hưởng rất lớn và phổ biến. Song song với đó, văn học mạng cũng được coi là một nhân tố quan trọng, có phần quyết định hoạt động quảng bá ngôn ngữ và văn học nước ta ra thị trường quốc tế - nhiệm vụ mà trước thế kỷ 21 chưa được thực hiện mạnh mẽ.

icon-date
Xuất bản : 02/03/2022 - Cập nhật : 18/12/2024

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads