Đáp án và lời giải chính xác cho câu hỏi: “Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản” cùng với kiến thức mở rộng do Top lời giải tổng hợp, biên soạn về chủ nghĩa tư bản là tài liệu học tập bổ ích dành cho thầy cô và các bạn học sinh tham khảo.
- Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn là: Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh ( CNTB- TDCT) và chủ nghĩa tư bản độc quyền (CNTB- ĐQ). Giai đoạn độc quyền là sự kế tục trực tiếp giai đoạn tự do cạnh tranh trong cùng một phương thức sản xuất TBCN.
- Chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do phát triển đến độ nhất định thì xuất hiện các tổ chức độc quyền. Lúc đầu tư bán độc quyền chỉ có một trong số ngành, một số lĩnh vực của nền kinh tế. Hơn nữa, sức mạnh kinh tế của các tổ chức độc quyền cũng chưa thật lớn. Tuy nhiên, sau này, sức mạnh của các tổ chức độc quyền đã được nhân lên nhanh chóng và từng bước chiếm địa vị chi phối trong toàn nền kinh tế. Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn phát triển mới- chủ nghĩa tư bản độc quyền. Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư abrn độc quyền và chúng chi phối sự phát triển cảu toàn bộ nền kinh tế. Nếu trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, sự phân hóa giữa các nhà tư bản chưa thực sự sâu sắc nên quy luật thống trị của thời kỳ này là quy luật lợi nhuận bình quân, còn trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật thống trị là quy luật lợi nhuận độc quyền. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất của chủ nghĩa tư bản. Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một hình thái biến tướng cảu quy luật giá trị thặng dư.
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền, là sự kết hợp sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
- Chủ nghĩa tư bản chỉ có thể ra đời khi trong xã hội có một lớp người lao động tự do và không có tư liệu sản xuất. Mặt khác phải có số lớn tiền, của cải khá lớn trong tay một số người để lập ra xí nghiệp.
- Tiền tệ là biểu hiện đầu tiên của tư bản, nhưng tiền chỉ chuyển hóa thành tư bản khi nó vận động theo công thức là: T-H-T’ (trong đó T’=T+At), tức là tiền ứng ra ban đầu, đưa vào sản xuất hàng hóa, qua trao đổi thu về số lượng tiền mới lớn hơn số tiền ứng ra ban đầu. Số tiền tăng thêm At, hay số tiền dư ra so với tiền ứng ra ban đầu gọi là giá trị thặng dư, ký hiệu là m, tức là tiền chỉ biến thành tư bản khi nó tạo ra giá trị thặng dư.
- Như vậy, tiền ứng ra ban đầu trong quá trình vận động đã biến thành số tiền lớn hơn. Đó là quá trình chuyển hóa tiền tệ thành tư bản. T-H-T’ là công thức chung của tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.
- T lại có thể biến thành T’ vì trong sản xuất, nhà tư bản đã tìm được một loại hàng hóa đặc biệt là: khi sử dụng nó, nó có khả năng tạo ra giá trị mới, lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là hàng hóa sức lao động. Sức lao động là năng lực lao động của con người. Nó gồm thể lực, trí lực, kỹ năng của người lao động được đem ra sử dụng trong lao động.
- Sức lao động là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất. Nó chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện: Một là, người có sức lao động được tự do về thân thể, có quyền đem bán sức lao động như hàng hóa. Hai là, họ không có tư liệu sản xuất và của cải khác. Muốn sống, họ phải bán sức lao động.
- Hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị hàng hóa và giá trị sử dụng. Giá trị hàng hóa sức lao động được quyết định bởi lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó. Nó được xác định bằng toàn bộ giá trị của các tư liệu sinh họat cần thiết về vật chất và tinh thần để duy trì đời sống bình thường của công nhân và gia đình họ, cùng những chi phí đào tạo để họ có trình độ nhất định.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng nhằm thỏa mãn nhu cầu của người mua, song nó có khác với hàng hóa thông thường ở chỗ khi sử dụng nó sẽ có khả năng tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Nhà tư bản tiến hành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa để tạo ra giá trị thăng dư.
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền chủ yếu do:
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.
+ Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát… đã tạo ra sản lượng lớn gang thép với chất lượng cao; phát hiện ra hoá chất mới như axít sunphuaric (H2SO4), thuốc nhuộm…; máy móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay…; phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay… và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.
+ Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy … ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
+ Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn. 128/281
+ Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
+ Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.