Câu hỏi: Vai trò của chân lý đối với thực tiễn
Trả lời:
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn, đó là các hoạt động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội, đồng thời cũng qua đó con người thực hiện một cách tự giác hay không tự giác quá trình hoàn thiện và phát triển chính bản thân mình. Chính quá trình này đã làm phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức của con người. Thế nhưng, hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả khi con người vận dụng được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ song trùng trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận thức con người phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, phải coi chân lý cũng là một quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội .
Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào trong các hoạt động kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt động đó về thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý khoa học trong thực tiễn hiện nay.
Cùng Top lời giải tìm hiểu thêm về chân lý nhé!
Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm chân lý dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
Ví dụ, hiểu biết sau đây là một chân lý: “không phải mặt trời xoay quanh trái đất mà là ngược lại, trái đất xoay quanh mặt trời”.
Mọi chân lý đều mang bốn thuộc tính: tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.
– Tính khách quan của chân lý:
Chân lý có tính phù hợp với tri thức và thực tại khách quan; chân lý không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người
Ví dụ, sự phù hợp giữa quan niệm “không phải mặt trời xoay quanh trái đất mà là ngược lại, trái đất xoay quanh mặt trời”.” là phù hợp với thực tế khách quan; nó không phụ thuộc vào quan niệm truyền thống đã từng có từ trước
– Tính cụ thể của chân lý:
Chân lý có tính có điều kiện của mỗi tri thức, phản ánh sự vật trong các điều kiện xác định không gian, thời gian, góc độ phản ánh,…).
Ví dụ, mọi nhà khoa học khi phát biểu định lý đều kèm theo các điều kiện xác định nhằm đảm bảo tính chính xác của nó: “trong giới hạn của mặt phẳng, tổng các góc trong của một tam giác là 2 vuông; nước sôi ở 100°C với điều kiện nước nguyên chất và áp suất 1 atmotphe,…
– Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý là nói: tính có điều kiện của mỗi tri thức, phản ánh sự vật trong các điều kiện xác định không gian, thời gian, góc độ phản ánh,...).
Ví dụ, mọi phát biểu định lý trong các khoa học đều kèm theo các điều kiện xác định nhằm đảm bảo tính chính xác của nó: “trong giới hạn của mặt phẳng, tổng các góc trong của một tam giác là 2 vuông; nước sôi ở 100°C với điều kiện nước nguyên chất và áp suất 1 atmotphe,...
– Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối
Chân lý có tính cách tương đối. Chân lý tương đối là chân lý chưa phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan; còn chân lý tuyệt đối là chân lý phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan. Chân lý tuyệt đối là sự tổng hợp vô tận những chân lý tương đối. Không một tri thức cụ thể nào của con người có thể xem là chân lý tuyệt đối mà chỉ là một phần rất nhỏ của chân lý tuyệt đối.
Ví dụ, hai khẳng định sau đây đều là chân lý, nhưng chỉ là chân lý tương đối: (1) Bản chất của ánh sáng có đặc tính sóng; (2) Bản chất của ánh sáng có đặc tính hạt. Trên cơ sở hai chân lý đó có thể tiến tới một khẳng định đầy đủ hơn: ánh sáng mang bản chất lưỡng tính là sóng và hạt.