logo

Tóm tắt truyện Quê nội


Tóm tắt truyện Quê nội

        Quê Nội là truyện dài của nhà văn Võ Quảng, được xuất bản năm 1974. Bối cảnh của tác phẩm ở quê hương của tác giả, làng Hòa Phước, tỉnh Quảng Nam, vào thời điểm sau Cách mạng tháng Tám. Hai nhân vật chính của tác phẩm là Cục, một cậu bé ở Hòa Phước, đứng nhân vật “tôi” trong truyện và Cù Lao, một cậu bé trạc tuổi Cục, ở xa mới theo cha trở lại làng.

Tóm tắt truyện Quê nội

Dưới đây là ba bản tóm tắt nội dung truyện Quê nội, mời bạn đọc tham khảo.


Tóm tắt truyện Quê nội – Mẫu số 1

        Bối cảnh của tác phẩm ở quê hương của tác giả, làng Hòa Phước, tỉnh Quảng Nam, vào thời điểm sau Cách mạng tháng Tám. Hai nhân vật chính của tác phẩm là Cục, một cậu bé ở Hòa Phước, đứng nhân vật "tôi" trong truyện và Cù Lao, một cậu bé trạc tuổi Cục, ở xa mới theo cha trở lại làng.

        Chú Hai Quân, cha của Cù Lao, vốn ở làng. Vì bị cường hào ức hiếp nên Hai Quân bỏ làng, bỏ vợ con ra đi. Sau mấy năm, biết được tin vợ ở quê đã mất, trong một lần ra cù lao Chàm bán thuốc, Hai Quân được giới thiệu cho một cô gái. Chú lấy vợ mới và ở lại quê vợ. Khi Cù Lao lên ba tuổi thì mẹ mất. Khi cậu bé mười hai tuổi thì Tổng khởi nghĩa xảy ra. Chú Hai Quân đưa Cù Lao trở về làng.

        Tác phẩm miêu tả cuộc sống ở làng quê thông qua những hoạt động thường ngày của Cục và Cù Lao, như làm cỗ mừng chú Hai Quân trở về, đến thăm nhà ông Bảy Hóa từng làm thầy cúng, nhà bà Hiến, làm các công việc chăn trâu, nuôi tằm... Cục và Cù Lao sau đó được đi học ở lớp thầy Lê Hảo, được dự khán các hoạt động của đội tự vệ làng.

        Khi có tin Pháp chiếm Nam Bộ, các hoạt động chuẩn bị kháng chiến được đẩy mạnh như các cán bộ làng đi học các lớp huấn luyện, đội tự vệ tăng cường diễn tập, trường học cũng được xây lại. Cục và Cù Lao được theo thuyền ngược lên nguồn để lấy gỗ làm trường.

        Phần "Quê nội" kết thúc khi chú Hai Quân ra công tác ngoài Đà Nẵng, Cù Lao đi theo cha và chia tay Cục, tạm biệt Hòa Phước.

        Phần "Tảng sáng" bắt đầu khi Cù Lao từ Đà Nẵng trở về khi quân Pháp trở lại chiếm Đà Nẵng. Phần này chủ yếu nói về cuộc kháng chiến khi Pháp tái chiếm, nhiều đoàn người từ Đà Nẵng chạy nạn về Hòa Phước. Nhân dân ở Hòa Phước cũng lo tính chuyện lánh nạn sang nhà người thân ở xa. Cục và Cù Lao thuộc bộ phận đưa tin kháng chiến. Lúc này Hòa Phước đã bị tàn phá dữ dội, có nhiều nhân vật tới từ bộ chỉ huy về kháng chiến chung với nhân dân. Phần "Tảng sáng" kết thúc khi cuộc chiến ác liệt ở Hòa Phước diễn ra và nhân dân Hòa Phước còn phải chiến đấu cùng nhân dân cả nước thêm 10, 20 năm nữa.


Tóm tắt truyện Quê nội – Mẫu số 2

        "Quê Nội” là tác phẩm tiêu biểu, sâu sắc nhất về Cách mạng Tháng Tám của Võ Quảng. “Quê Nội” hấp dẫn bạn đọc chủ yếu là ở dòng văn xuôi tự sự, sống động, giàu có về hình tượng và phong phú về giọng điệu. Dựa vào góc nhìn và tâm lí của chú bé Cục -nhân vật dẫn chuyện - tác giả đã khéo chắp nối, móc xích các chi tiết các sự kiện khiến cho mạch truyện chảy tự nhiên và đầy bất ngờ. Thủ pháp tác giả thường dùng là khai thác sự khác lạ. Những con gà của chị Bốn, ông Bảy... khác nhau về hình dáng, giọng gáy, mầu lông, kiểu cách gọi bầy. Thằng Cù Lao ở cù lao Chàm về, người đen nhẻm, đội chiếc mũ nồi có nhiều khoanh xanh đỏ. Và theo bọn trẻ kháo nhau: nó là mọi biển, đít có đuôi, uống nước mặn bằng lỗ mũi... Sự khác nhau lớn nhất, bao trùm lên toàn bộ người và cảnh trong truyện là sự đổi thay từ Cách mạng Tháng Tám. Chòm đa Lí, trước là hang ổ của lũ ma Cụt Đầu, quỷ Năm Nanh nay là bãi tập của dân quân. Còn chị Ba cắt tóc ngắn, cạo răng đen, bỏ yếm thao khăn điều... vào tự vệ, cũng như ông Bảy Hóa cắt tóc cạo râu, dọn ban thờ, xé tranh thập điện, từ bỏ nghề thầy cúng để làm Việt Minh. Thay đổi nhiều nhất là bà Kiến. Trước nghèo nhất thôn, sống trong túp lều ghép bằng hai mảnh tranh, bà đói khát vật vờ chẳng ai để ý, nay bỗng trở nên người được Ủy ban xã và cả làng quan tâm góp tranh tre làm nhà, cử thầy đến dạy vần quốc ngữ... Võ Quảng không nói chính trị, nhưng rõ ràng bằng hình tượng, ông đã thể hiện tính chất nhân dân sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám. Ngay cả những nhận thức ấu trĩ: ngày mai, ngày kia sẽ thịt hết trâu bò để cày máy, phá hết nhà cửa để lên nhà cao tầng bằng gạch ngói, sắt thép do tàu bay Liên Xô chở sang... cũng rất thật và nhuốm mầu lãng mạn nên thơ. Một đặc điểm nữa của "Quê Nội” là giọng điệu dân gian, tình tự dân tộc với đủ thể loại: Hô bài chòi, hát đò đưa hát bội, kể vè, nói vần, đọc thơ... Tác giả sử dụng nhiều nhất là thuật nói trạng. Nói trạng như ông Tư Đàm là nói kiểu Ba Phi: lên núi xông hương mê, bắt cọp ghè răng, nhổ vuốt, dắt nó về cưỡi. Loại đó không nhiều, nhiều hơn và cũng ngón nghề hơn là tác giả dựa vào tâm lí nhân vật mà lồng truyện trạng vào, như khi học vần: ba ba bỏ bể, cá trê phá nhà là Cục và Cù Lao nổi lên cãi nhau: bắt được ba ba người ta bỏ nồi chứ không ai bỏ bể, cá trê sống trong ao hồ làm sao phá được nhà v. v... Có thể nói chất folklore khá đậm đà. Hầu như người Hòa Phước ai cũng là diễn viên. Những cảnh lao động, tập tành đôi khi lớp lang, sôi động như trên sân khấu hài. Ngay cả đám trẻ trâu, chơi trò giật lá cũng xưng danh là chàng Lía, Trương Phi, Cốt Đột... Chính chất dân gian này đã tạo nên tiếng cười, niềm vui thấm đẫm các trang “Quê Nội”. Làm sao không vui khi những người nô lệ, từng chịu cảnh đói rét, chết chợ chết đường; từng sợ hãi từ lão lý trưởng đến cây sung, cây đa, từng bỏ làng ra đi nay được trở về đoàn tụ, trở thành những người tự do, bình đẳng cùng chung sức, chung lòng Xây nền độc lập lên đài tự do . Nói giọng điệu này khác, là để dễ nắm bắt tính độc đáo của văn Võ Quảng, trên thực tế “Quê Nội” là một chỉnh thể thống nhất hài hòa giữa trữ tình và tự sự, truyền thống và hiện đại, cái cao cả và cái buồn cười... Tất cả nhằm tôn vinh tình yêu xứ Quảng cũng là tình yêu Tổ quốc và niềm khao khát cách mạng. Mặt khác nó phù hợp với tâm lý, sở thích trẻ em mà tác giả hướng tới. Nhà văn Tô Hoài, nhiều năm liền phụ trách mảng văn chương cho thiếu nhi, so sánh “Quê Nội” với những tác phẩm hay viết về thời niên thiếu như “Chiếc Cáng Xanh” của Lưu Trọng Lư, “Phấn Thông Vàng” của Xuân Diệu rồi kết luận: Quê Nội có vẻ đẹp cao rộng hơn. Bà Alice Kahn, nhà phê bình từng dịch “Quê Nội” sang tiếng Pháp thì so sánh Cục - Cù Lao với đôi bạn Tom Sawyer - Hucklebery Finn của Mark Twain và tỏ ý thích Cục - Cù Lao hơn. Bà cũng cho rằng văn Võ Quảng giàu nhạc điệu và mầu sắc địa phương rất khó dịch. Kẻ hậu sinh viết bài này, 40 năm trước, lần đầu tiên đọc Võ Quảng, không kìm được niềm hứng khởi đã chạy đến tác giả hỏi ông bằng cách nào, nhờ đâu mà có sức tái hiện mạnh mẽ đến thế. Võ Quảng chỉ vào một chồng sổ tay rồi nói: "Hồng xem đi. Đầu tiên là mình ghi những tên người, tên đất đã từng quen, rồi cố nhớ lại, ôn lại, vẽ lên những hình tượng về họ, cố gắng vẽ cho thật rõ từng sợi râu, nếp áo. Mình ngẫm nghĩ về nỗi khổ cực, những phẩm chất tốt đẹp cũng như những tật xấu mà họ mắc phải..." Trang 117, sổ tay sáng tác của ông vẽ một mặt trời vàng, giữa ghi dòng chữ đỏ: Bừng lên một làng. Chung quanh mặt trời là nhiều vòng tròn nhỏ ghi tên các nhân vật. Ông bảo: "Bừng lên một làng là chủ đề, các nhân vật phải xoay quanh chủ đề đó như các hành tinh xoay quanh mặt trời". Vì vậy hơn 20 nhân vật ông từng ấp ủ, tái hiện đã phải bỏ đi để làm bật chủ đề và hợp với bạn đọc nhỏ. Võ Quảng viết “Quê Nội” năm 1961, phải mất 15 năm mới hoàn thành 400 trang sách. Ông không thành công một cách dễ dàng. Các nhân vật, các ấn tượng không ùa vào trong sách ông như các tác giả trẻ có ưu thế về vốn sống trực tiếp, về năng khiếu. Rõ ràng ông phải vật lộn với từng chi tiết.


Tóm tắt truyện Quê nội – Mẫu số 3

        Quê nội là một tác phẩm mang đậm phong vị đất và người xứ Quảng. Đây là một trong số ít tác phẩm thành công về đề tài Cách mạng Tháng Tám. Võ Quảng viết Quê nội từ năm 1961 đến 1974, phải mất 13 năm mới hoàn thành gần 400 trang sách. 

        Nội dung của truyện được chia làm 2 phần chính: Phần 1 gồm 12 chương và phần 2 gồm 9 chương.

        Tác phẩm ra đời năm 1974, không lâu sau đó, nó đã có sức ảnh hưởng không nhỏ tới bạn đọc Việt Nam và bạn đọc thế giới. Lấy bối cảnh của những năm kháng chiến chống Pháp, Võ Quảng đã đặt câu chuyện xảy ra tại chính quê hương mình, đó là làng Hòa Phước, tỉnh Quảng Nam – một tỉnh miền Trung nước ta. Đồng hành cùng truyện là hai nhân vật chính với cái tên giản dị, mộc mạc đó là hai chú bé Cục và Cù Lao cùng với một số nhân vật khác như chú Năm Mùi, dượng Hương Thư, chú Hai Quân. Câu chuyện bắt đầu sau Cách mạng tháng Tám, sau ngày Tuyên ngôn độc lập đất nước năm 1945.

        Võ Quảng đã vẽ nên một bức tranh đặc sắc về bước thay đổi của làng quê Quảng Nam sau đêm dài nô lệ. Ở đó có những phận người “đang rỉ ra, đang mục đi” như bà Hiến cả đời ở đợ, ông Bốn Rị chuyên bán thịt chó đã được cách mạng trả lại vị thế làm người. Trên nền của làng quê ấy, Võ Quảng cũng khắc họa một lớp người đang hăm hở theo cách mạng. Đó là anh Bốn Linh, chú Năm Mùi, chị Ba, anh Bảy Hoành, một vai việc nhà, một vai việc nước. Thầy Lê Hảo tất bật với việc dựng trường dạy học. Ông Bảy Hóa một thời tha phương mà không kiếm nổi miếng ăn bây giờ “đất nước độc lập rồi” về quê sung vào tự vệ quyết một phen sống mái với bọn thực dân nếu chúng dám quay lại bờ sông Thu Bồn này.

        Tác phẩm dựng lại một lát cắt lịch sử làng Hòa Phước từ sau cách mạng tháng Tám, cho đến những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến. Cái làng Hòa Phước bao nhiêu năm bị đè nén trong tăm tối giờ vỡ òa trong niềm vui đổi đời. Sự khác nhau lớn nhất, bao trùm lên toàn bộ người và cảnh trong truyện là sự đổi thay từ Cách mạng tháng Tám. Chòm đa Lý, trước là hang ổ của lũ ma Cụt Đầu, quỷ Năm Nanh nay là bãi tập của dân quân. Còn chị Ba cắt tóc ngắn cạo răng đen, bỏ yếm thao khăn điều… vào tự vệ, cũng như ông Bảy Hóa cạo râu, dọn ban thờ xứ, tranh thập điện, từ bỏ nghề thầy cúng để làm Việt Minh. Thay đổi nhiều nhất là bà Kiến. Trước nghèo nhất thôn, sống trong túp lều ghép bằng hai mảnh tranh, bà đói khát vật vờ chẳng ai để ý, nay bỗng trở nên người được ủy ban xã và cả làng quan tâm, giúp tranh tre làm nhà, cử thầy đến dạy vần quốc ngữ…

        Ngòi bút của Võ Quảng còn cho người đọc hình dung những hoạt động lao động quen thuộc của dân làng Hoà Phước như cảnh chống ghe, lèo lái bè gỗ trên những quãng sông đầy ghềnh thác ở thượng nguồn Thu Bồn, hay như cảnh đào dâu, kéo tre ép mía, nấu đường.… Họ tất bật với công việc trồng dâu nuôi tằm, bủa kén nhưng cũng hăng say luyện tập tự vệ, xây trường học, dạy bình dân học vụ. Tất cả họ hòa vào cách mạng với lòng nhiệt tình và cả bằng niềm tin.

        Quê nội là tác phẩm viết cho thiếu nhi. Nó không hướng đến kết cấu phức tạp của một tiểu thuyết. Chung qui lại đó chỉ là câu chuyện về cậu bé Cục và Cù Lao đang “đang lớn lên trong mùa cách mạng”, đang hăm hở, sốt ruột muốn trở thành người lớn, muốn được giao những việc quan trọng trong khi chưa kịp từ giã hết tuổi thơ tinh nghịch và trong trẻo. Với một ngôn ngữ sống động, cuốn sách đã tái hiện một giai đoạn lịch sử quan trọng trên quê hương Quảng Nam- Giai đoạn những người chân đất dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng lên xoá bỏ ách đô hộ của thực dân, phong kiến, làm chủ đời mình, ghé vai gánh vác công việc quốc gia và đi vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ 2 với niềm tin tất thắng.

        Đó là một niềm tin về ngày mai tươi sáng của dân tộc, là vẻ đẹp bình dị tự nhiên của mảnh đất Quảng Nam đầy nắng gió với những con người chân chất và hơn cả trong họ là tình yêu quê hương chân thành, tha thiết mà tác giả gửi gắm trọn vẹn vào từng câu chữ.

icon-date
Xuất bản : 31/07/2021 - Cập nhật : 31/07/2021