logo

Tóm tắt chiến tranh Trung - Nhật

icon_facebook

Hướng dẫn “Tóm tắt chiến tranh Trung - Nhật” với những thông tin dầy đủ và chi tiết nhất giúp các bạn tham khảo và mở rộng kho tàng kiến thức về Lịch sử cua mình.

Chiến tranh Trung – Nhật (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới kể từ khi Nhật Bản chiếm đóng Mãn Châu vào năm 1931 nhưng đến năm 1937, xung đột đã leo thang thành chiến tranh toàn diện. 


1. Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất

a. Nguyên nhân

- Cuộc chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất diễn ra giữa một bên là Vương triều nhà Thanh và một bên là Đế quốc Nhật Bản từ ngày 1/8/1894 tới ngày 17/4/1895. Cuộc chiến này cũng là cuộc chiến báo hiệu hồi kết của triều đình phong kiến cuối cùng của Trung Quốc khi sức mạnh của nhà Thanh dần suy yếu về cả mặt chính trị lẫn quân sự và họ thua kém Nhật Bản về mọi mặt.

- Nguyên nhân của cuộc chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất bắt nguồn từ Triều Tiên. Nhật Bản muốn mở rộng thuộc địa của mình về phía đất liền và mục tiêu đầu tiên của họ là Triều Tiên, một quốc gia được nhà Thanh bảo hộ.

[ĐÚNG NHẤT] Tóm tắt chiến tranh Trung - Nhật

- Triều tiên từ lâu đã là khách hàng quan trọng nhất của Trung Quốc, nhưng vị trí chiến lược đối diện với các đảo của Nhật Bản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên về than và sắt đã thu hút sự quan tâm của Nhật Bản. 

- Năm 1875, Nhật Bản bắt đầu áp dụng công nghệ phương Tây, đã buộc Triều Tiên phải mở cửa với nước ngoài, đặc biệt là Nhật Bản, thương mại và tuyên bố độc lập với Trung Quốc trong quan hệ đối ngoại.

- Năm 1884, một nhóm các nhà cải cách thân Nhật đã cố gắng lật đổ chính phủ Triều Tiên, nhưng quân đội Trung Quốc dưới sự chỉ huy của Tướng quân.Yuan Shikai đã giải cứu nhà vua, giết chết một số lính canh của Nhật Bản trong quá trình này. Chiến tranh đã được tránh giữa Nhật Bản và Trung Quốc bằng việc ký kết Công ước Li-Itō , trong đó cả hai nước đồng ý rút quân khỏi Triều Tiên.

- Tuy nhiên, vào năm 1894, Nhật Bản với niềm tự hào dân tộc sau khi chương trình hiện đại hóa thành công và ảnh hưởng ngày càng tăng của nó đối với giới trẻ Hàn Quốc, lại không sẵn sàng thỏa hiệp. Trong năm đó,Kim Ok-Kyun, nhà lãnh đạo Triều Tiên thân Nhật trong cuộc đảo chính năm 1884 , bị dụ đến Thượng Hải và bị ám sát, có thể là do các đặc vụ của Yuan Shikai. Thi thể của anh ta sau đó được đưa lên một tàu chiến Trung Quốc và đưa trở lại Hàn Quốc, nơi nó được chôn cất và trưng bày như một lời cảnh báo cho các phiến quân khác. Chính phủ Nhật Bản coi đây là một sự sỉ nhục trực tiếp, và công chúng Nhật Bản đã rất phẫn nộ. Tình hình trở nên căng thẳng hơn vào cuối năm khi Cuộc nổi dậy Tonghak nổ ra ở Triều Tiên, và chính phủ Trung Quốc, theo yêu cầu của nhà vua Triều Tiên, đã gửi quân đến hỗ trợ giải tán quân nổi dậy. Người Nhật coi điều này là vi phạm Công ước Li-Itō, và họ đã gửi 8.000 quân đến Hàn Quốc.

- Sau nhiều sự kiện gây hấn giữa Trung-Nhật ở Bán đảo Triều Tiên và cả ở Thượng Hải, Chiến tranh Trung-Nhật chính thức xảy ra ngày 1/8/1894.  

- Quân đội Đế quốc Nhật Bản tỏ ra áp đảo trên mọi mặt trận với biên đội tàu chiến hiện đại trang bị hải pháo cỡ lớn, cùng quân đội sử dụng vũ khí cách tân của phương Tây, họ đánh bại quân đội nhà Thanh trên mọi mặt trận với chiến thắng áp đảo hoàn toàn. Tranh thủ ưu thế này, Nhật Bản tấn công luôn vào Đài Loan, chiếm toàn bộ hòn đảo này và chiếm luôn cả quần đảo Bành Hồ ngoài khơi Đài Loan.

b. Kết quả

- Đến tháng 3 năm 1895, quân Nhật đã xâm chiếm thành công tỉnh Sơn Đông và Mãn Châu và có những đồn bốt kiên cố chỉ huy các đường biển tiếp cận Bắc Kinh . Người Trung Quốc kiện đòi hòa bình.

- Trung Quốc cũng đồng ý trả một khoản bồi thường lớn và trao cho Nhật Bản các đặc quyền thương mại trên lãnh thổ Trung Quốc. Hiệp ước này sau đó đã được sửa đổi phần nào do lo ngại của Nga về sự bành trướng của Nhật Bản, và sự can thiệp kết hợp của Nga, Pháp và Đức đã buộc Nhật Bản trả lại bán đảo Liêu Đông cho Trung Quốc.

- Thất bại của Trung Quốc đã khuyến khích các cường quốc phương Tây đưa ra các yêu cầu hơn nữa đối với chính phủ Trung Quốc. Tại chính Trung Quốc, cuộc chiến đã khơi mào cho một phong trào cải cách, nỗ lực cải tạo chính phủ; nó cũng là kết quả của sự khởi đầu của hoạt động cách mạng chống lại các nhà cai trị triều đại nhà Thanh của Trung Quốc.


2. Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai

a. Nguyên nhân khơi mào chiến tranh

- Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai  (1937–1945), xung đột nổ ra khi Trung Quốc bắt đầu cuộc kháng chiến toàn diện nhằm mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản trên lãnh thổ của mình (bắt đầu từ năm 1931). 

- Nhật Bản trong giai đoạn trước Thế chiến 2 đánh dấu bước phát triển mạnh, rất khát tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là kim loại, dầu mỏ.

- Trung Quốc khi đó rơi vào cuộc nội chiến căng thẳng, giữa phe Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch và đảng Cộng sản do lãnh tụ Mao Trạch Đông lãnh đạo.

- Năm 1937, binh sĩ Nhật đóng quân ở Phong Đài (Fengtai), khi đó là khu rừng biệt lập nằm ở phía tây nam Bắc Kinh. Một trong những thành trì bảo vệ Bắc Kinh ở Phong Đài là thành Uyển Bình. Nơi đây có cây cầu Marco Polo dẫn thẳng đến Bắc Kinh.

- Quân Nhật khi đó liên tục tập trận, khuếch trương thanh thế nhưng chính quyền Trung Quốc không có ý định ngăn chặn, chỉ yêu cầu phía Nhật thông báo trước các cuộc tập trận để trấn an dân chúng.

 

- Nhật Bản chỉ đồng ý lấy lệ. Quân Nhật càng ngày càng tiến gần cầu Marco Polo hơn.

- Những gì người Nhật cần là một cái cớ, giống như vụ đánh bom tuyến đường sắt ở Mãn Châu. Đêm ngày 7.7.1937, quân Nhật tổ chức một cuộc tập trận bất ngờ gần cầu Marco Polo. Binh nhì Shimura Kikujiro trong khi tập trận đã tách đội hình, đi vào rừng để giải quyết nhu cầu vệ sinh.

- Khi Kikujiro quay trở lại, các binh sĩ đã rời đi. Binh nhì này phải mất nhiều giờ mò mẫm trong đêm tối mới trở về được doanh trại. Trong khi đó, phía Nhật yêu cầu người Trung Quốc mở cổng thành Uyển Bình để tìm binh nhì đi lạc.

- Phía Trung Quốc quyết không mở cổng vì cho rằng không thể có chuyện binh sĩ Nhật đi lạc được vào trong thành. Lính Trung Quốc đề nghị sẽ tự tìm kiếm nhưng vẫn không được quân Nhật đồng ý.

- Các tài liệu mật được Thư viện Quốc hội Nhật Bản (NDL) công khai năm 2013 cho thấy các tướng lĩnh Nhật đã muốn lợi dụng sự cố này để phát động tấn công, dù binh nhì Kikujiro sau đó đã trở về đơn vị an toàn.

- Trong đêm đó, giao tranh nổ ra nhưng không rõ bên nào nổ súng trước. Đến rạng sáng ngày 8.7.1937, một đơn vị lính Nhật tìm cách mở đường máu tiến vào thành, nhưng bị đẩy lùi.

- Phía Trung Quốc một mặt tìm cách đàm phán, mặt khác huy động quân hỗ trợ thành Uyển Bình. Đến 4 giờ 50 phút sáng, chiến tranh Trung-Nhật lần hai bùng nổ.

b. Kết quả

- Chỉ trong vòng một tháng, Bắc Kinh và cảng Thiên Tân – cảng biển lớn nhất miền bắc Trung Quốc rơi vào tay quân Nhật.

- Lãnh thổ Trung Quốc giai đoạn này chủ yếu do Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch kiểm soát. Năm 1937, Quốc dân Đảng có 1,7 triệu quân, so với Nhật Bản ở giai đoạn đầu chỉ có 600.000 quân.

- Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Mao Trạch Đông lúc này vừa hoàn thành cuộc Vạn Lý Trường Chinh, chưa sẵn sàng kháng chiến chống Nhật.

- Ngược lại, Tưởng Giới Thạch lại chủ trương phát động chiến tranh quy ước với quân Nhật. Kết quả là Quốc Dân Đảng liên tục hứng chịu những thất bại nặng nề.

- Ước tính trong 8 năm chiến tranh Trung-Nhật, Trung Quốc đã mất tổng cộng 14-20 triệu người, bao gồm cả binh sĩ và dân thường. Đây được coi là cuộc chiến đẫm máu nhất ở châu Á trong lịch sử hiện đại.

- Giai đoạn đầu cuộc chiến, Tưởng Giới Thạch phải một mình chống Nhật dù đã liên minh với Mao Trạch Đông, do cả Liên Xô và Mỹ khi đó đều chưa tham chiến.

- Khi Liên Xô mở mặt trận chống phát xít Đức trong Thế chiến 2, sự giúp đỡ đối với Trung Quốc vẫn rất hạn chế vì Moscow không muốn phải vừa chống Đức ở mặt trận phía tây, vừa đối phó quân Nhật ở phía đông.

- Phải tới tận khi Mỹ quyết định tham chiến, Washington mới bắt đầu tác động lên Liên Xô về vấn đề Trung Quốc để tăng cường viện trợ cho các lực lượng quân sự Trung Quốc chống Nhật.

- Trên thực tế, phe Quốc dân Đảng đã liên tiếp thất bại trong các trận chiến lớn với quân Nhật, để mất các thành phố quan trọng như Thượng Hải, Quảng Châu, khiến uy tín của Tưởng Giới Thạch giảm sút.

- Đến năm 1941, quân Nhật kiểm soát toàn bộ các vùng ven biển trù phú ở Trung Quốc và gần như án binh bất động, chuyển hướng sang mặt trận Thái Bình Dương chống Mỹ.

- Sau khi cục diện Thế chiến 2 an bài với chiến thắng thuộc về phe Đồng Minh, đội quân do Mao Trạch Đông lãnh đạo nhân cơ hội giành chính quyền, buộc Tưởng Giới Thạch rút sang Đài Loan.

- Đây là lý do các nhà sử học trên thế giới đều đồng tình rằng Trung Quốc chưa bao giờ thắng Nhật Bản trong cuộc chiến lần 2. Nhật rút quân khỏi Trung Quốc là do đầu hàng Đồng Minh. Trung Quốc với tư cách là đồng minh chống phát xít, nghiễm nhiên là phe chiến thắng.

icon-date
Xuất bản : 04/04/2022 - Cập nhật : 09/06/2022

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads